Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 62

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 123

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm bốn mươi ba, ḍng th sáu t dưới đếm lên.

       “Hoa Nghiêm kinh hựu vân” (kinh Hoa Nghiêm lại nói), xem từ chỗ này, “nhất thiết tự tại nan tư nghị, Hoa Nghiêm tam-muội thế lực cố” (Hết thảy tự tại khó nghĩ bàn là do thế lực của Hoa Nghiêm tam-muội). Hựu Hợp Tán viết: - Pháp giới duy tâm, danh Phật Hoa Nghiêm. Dĩ nhân hạnh hoa, nghiêm quả đức tướng, linh hiển trước cố. Nhập thử tam-muội, hiện kiến thập phương Phật cập Phật độ” (Sách Hợp Tán lại nói: “Pháp giới duy tâm gọi là Phật Hoa Nghiêm. Dùng hoa nhân hạnh trang nghiêm khiến cho tướng trạng của quả đức được hiển hiện. Nhập tam-muội này sẽ thấy mười phương Phật và các cơi Phật trong hiện tại”). Vẫn là dùng kinh luận để giải thích Hoa Nghiêm tam-muội. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải bộ đại kinh này, trích dẫn một trăm chín mươi ba bộ kinh luận, nên chúng ta đọc bản chú giải của cụ, cũng giống như xem hơn một trăm bộ kinh luận. Những văn tự có liên quan đến kinh Vô Lượng Thọ đây đều là tinh yếu, cốt lơi, ch này chúng ta có th thấy được! đây, cụ trích dẫn kinh Hoa Nghiêm để nói, hai câu sau đây là kinh văn: “Nhất thiết t tại nan tư nghị, Hoa Nghiêm tam-muội thế lực cố”. Trong phần trước, chúng ta đă học Hoa Nghiêm tam-muội dùng Nhất Chân pháp giới làm duyên khởi vô tận, đó là lư luận và ch quy thú của nó. Thông đạt, hiểu rơ, nương theo đó để thực hiện, nương theo luận, phương hướng, mục tiêu ấy để xử sự, chúng ta thường nói là “tu hành”. Đó là tam-muội, [tam-muội ấy] được gọi là Hoa Nghiêm tam-muội. Do đó, đắc Hoa Nghiêm tam-muội th́ hết thảy tự tại, sao? Th của Hoa Nghiêm tam-muội Nhất Chân pháp giới, là vô tận duyên khởi, nói theo cách hiện thời là toàn th vũ trụ. Bất luận tánh, tướng, lư, sự, nhân, quả, không chẳng thông đạt, chẳng có ǵ không hiểu, nên ngườiy mới đắc tự tại. V́ vậy, chúng ta có th biết: Chẳng t tại là đâu? Do mê mất tự tánh.

      Lục đạo phàm phu chúng ta, cho đến các v tiểu thánh trong tứ thánh pháp giới, đều chưa khai ngộ. Hoa Nghiêm tam-muội là cảnh giới đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Chưa khai ng là phàm phu, trong lục đạo; trong pháp Đại Thừa, những ngườiy được gọi là nội phàm”, do c̣n trong lục đạo. Tứ thánh pháp giới được gọi ngoại phàm”, ngoài lục đạo. sao gọi h là phàm phu? Chưa kiến tánh, vẫn dùng vọng tâm y như cũ. Vọng tâm A Lại Da, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bất quá, h s dụng [vọng tâm] thù thắng hơn chúng ta. Chúng ta mê mà bất giác, lại không tin lời Phật, Bồ Tát, hoàn toàn cậy vào phiền năo tập khí của chính ḿnh để x sự; trên thực tế, x s kiểu đó bèn tạo nên oan nghiệt. T thánh pháp giới tuy dùng vọng tâm, nhưng h tin Phật. Tôi dùng ch này, các đồng học phải lưu ư, tức chúng ta không tin Phật, họ tin Phật. sao? Họ nghe theo giáo huấn của đức Phật, thật sự hành. C̣n chúng ta hằng ngày nghe Phật dạy, nghe cũng đă nhàm tai, chẳng thật sự hành. Dẫu có hành th́ cũng bớt xén rất lớn! dụ như điều cơ bản nhất là Thập Thiện Nghiệp Đạo, đây là giáo huấn cơ s của đức Phật, học Phật học t ch nào? Học bắt đầu t ch này, chúng ta có làm được hay không? Đức Phật dạy chúng ta đừng sát sanh, chúng ta làm được hay không? [Quư v khoe] “ta không sát sanh”, nhưng muỗi đến chích quư vị, chẳng phải quư v đập nó chết tươi ư? Nếu q vị đánh chết nó th́ chẳng phải đă sát sanh rồi hay sao? Lại hỏi chúng ta có ăn thịt hay không? Ăn thịt cũng là sát sanh. Chúng ta có ư niệm tổn hại k khác hay không?ư niệm tổn hại người khác chính là ư niệm sát sanh, tức quư vị chẳng đoạn dứt sát tâm, c̣nư niệm làm tổn hoại người khác. Đối với trộm cắp, chúng ta không trộm cắp, nhưng có ư niệm chiếm tiện nghi hay không? Quốc dân đóng thuế cho quốc gia nghĩa vụ, chuyện đáng nên làm, chúng ta có hy vọng phải nộp thuế ít hơn một chút, t́m văn bản pháp luật xem có ch nào để th trốn thuế hay không để chúng ta đóng thuế ít hơn một chút, tâm niệm ấy là tâm trộm cắp. Tuy chẳng trộm cắp, nhưng quư vị tâm trộm cắp, có ư niệm trộm cắp. V́ thế, mỗi điều đều rất vi tế, chúng ta dường như không làm, nhưng suy nghĩ kỹ, tất cả đều phạm, đó ǵ? Đó lục đạo phàm phu.

      Những v trong t thánh pháp giới thật s làm được. Không chỉ làm được, c̣n làm vô cùng vi tế. Thánh nhân Tiểu Thừa, chúng ta thấy A La Hán và Bích Chi Phật, hai loại trước trong tứ thánh pháp giới là Tiểu Thừa, hai loại sau là Đại Thừa, tức Bồ Tát Phật, Tiểu Thừa có thể triển khai Thập Thiện Nghiệp Đạo thành ba ngàn điều, chẳng phải mười điều. Mười điều triển khai thành ba ngàn điều, tức ba ngàn oai nghi. Bồ Tát pháp giới và Phật pháp giới càng thù thắng hơn, các Ngài triển khai thành tám vạn bốn ngàn tế hạnh[1]. Đó là trong mười pháp giới, chưa thoát khỏi mười pháp giới, ngoại phàm, nhưng các Ngài làm được. T thánh pháp giới thật sự là đệ t của đức Phật. Do vậy, có th biết: Trong Nhất Chân pháp giới, đây nói Nhất Chân pháp giới”, các vị Bồ Tát trong Nhất Chân pháp giới đều đắc Hoa Nghiêm tam-muội. Thập Thiện Nghiệp Đạo được triển khai không phải là tám vạn bốn ngàn, mà là vô lượng, vô biên, vô số, vô tận, đạt tới viên măn rốt ráo. V́ thế, nhất thiết tự tại nan tư nghị” (hết thảy t tại khó nghĩ bàn), chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng. Đóǵ? “Hoa Nghiêm tam-muội thế lực cố” (do thế lực của Hoa Nghiêm tam-muội). Các Ngài chứng đắc Hoa Nghiêm tam-muội, nên mới có sự thù thắng n vậy. Tự tại giải thoát, trong Phật quả nói đến ba đức Bát Nhă, Pháp Thân, Giải Thoát, [các Ngài] đều chứng đắc ba th ấy viên măn.

       Trong sách Hợp Tán nói khá cặn kẽ: Pháp giới duy tâm, danh Phật Hoa Nghiêm” (pháp giới duy tâm gọi là Phật Hoa Nghiêm). Pháp giới hết thảy các pháp, hết thảy các pháp do đâu mà có? Kinh Hoa Nghiêm đă dạy chúng ta: Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tánh - Tướng nói theo cách hiện thời th́ Tánh là hiện tượng tinh thần, Tướnghiện tượng vật chất. Trong kinh Phật, thường dùng Ngũ Uẩn để h́nh dung và thuyết minh. Ngũ Uẩn gồm năm điều, tức năm pháp. Thứ nhấtSắc, Sắc là nói tới vật chất. Bất luận trong t́nh huống nào, dù là chất rắn, chất lỏng, hay chất khí, nói chung, nó là vật chất, đều là Tướng Phần của A Lại Da. Hiện tượng tinh thần là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nó cảm thụ, nó có cảm nhận. Cũng có th nói là nó có các th cảm nhận khổ, lạc, ưu, hỷ. Vật chất tinh thần vĩnh viễn chẳng th tách rời, chúng kết hợp cùng một chỗ, nên hiện tượng vật chất nào cũng đều Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Quư vị thấy tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản làm thí nghiệm với nước, nước khoáng vật, thật sự thí nghiệm thấy nước có th nh́n, nghe, hiểu ư nghĩ của con người. Chúng ta đối xử tốt đẹp với nó, có th cảm nhận, nó rất vui sướng, rất hoan hỷ. Chúng ta đối x với nó không tốt, nó rất khổ năo, nó có thể hiện ra h́nh tướng cho chúng ta thấy. Chúng ta x tốt với nó, nói: “Chúng tôi rất ưa thích ngươi, rất mến ngươi”, nó phản ứng vô cùng đẹp đẽ. Chúng ta nói “tao ghét mày, tao chẳng ưa mày”, nó phản ứng rất xấu xí. Điều này cho thấy nó Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nói theo kiểu của người hiện thời, toàn th trụ là một th hữu cơ, sống động, chẳng chết cứng! Trong bất c hiện tượng vật chất nào, cũng đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Pháp giới duy tâm, đó là Phật Hoa Nghiêm”.

        nhân hạnh hoa” (do coi hạnh trong lúc tu nhân là hoa), Hoa tượng trưng cho cái nhân, Nghiêm biểu thị cái quả. Đây là dùng thực vật để t dụ, quư vị thấy thực vật nở hoa trước, kết quả sau. Trong s cúng dường của chúng ta, tức là s cúng dường trong Phật pháp, hương và hoa thường được dùng nhất. Kẻ b́nh phàm ch biết thắp hương, dùng hoa tươi cúng Phật; thật ra, phải hiểu ư nghĩa của nó. Chẳng hiểu ư nghĩa của nó, s là ch có h́nh thức, chẳngthực chất. Thực chất quan trọng hơn h́nh thức, chúng ta phải biết điều này! Phật pháp, trọng thực chất, chẳng trọng h́nh thức. Do vậy, cá nhân chúng ta tu hành, hăy nên trọng thực chất, đừng trọng h́nh thức, nhưng ở chung với đại chúng, h́nh thức rất quan trọng, sao? Biểu th pháp. Chúng ta cùng đại chúng cộng tu trong Phật đường, trước h́nh tượng Phật, Bồ Tát, phải cúng hương, hoa, ch riêng ḿnh tu hành th́ chẳng cần thiết. Một nén hương là đủ rồi, hương, đèn, nước, một chén nước, khi bản thân chúng ta tu học [ch cần như vậy] là được rồi. Hương tượng trưng cho Tín, tín hương, đại biểu Giới, Định. Quư v thấy trong bài Hương Táncâu Giới Định chân hương, biểu th điều này. Do vậy có th biết: Hươngh́nh tướng, thực chất là ǵ? Thực chất là Giới, Định. Nếu chúng ta chẳng có Giới, chẳngĐịnh, ch một nén hương suông, tức là ch h́nh thức, chẳngthực chất. Hương nhắc nhở chính ḿnh phải tu Giới - Định, và cũng nhắc nhở người khác, có ư nghĩa ấy. Cúng hoa, hoa biểu th s tu nhân, nhân ǵ vậy? Lục Độ là nhân, bố thí, tŕ giới. Trong t giới, Thập Thiệnnhân. Do vậy, chúng ta chú trọng tu nhân. Chẳng cúng hoa không sao cả, chúng ta thật sự tu hành tu nhân, tu Thập Thiện, tu Lục Độ, đó là ư nghĩa của việc cúng hoa. Không cúng hoa, nhưng chúng ta đă đạt được ư nghĩa ấy, tức là có thực chất, chẳng có h́nh thức; điều này rất trọng yếu, h́nh thức chẳng trọng yếu. Chúng ta cúng trái cây, trái cây biểu th phương hướng và mục tiêu tu hành, trái cây tượng trưng điều ǵ? Tượng trưng Bồ Đề, tượng trưng Niết Bàn. Chúng ta tu Tịnh Độ, qu ấy biểu th Tây Phương Cực Lạc thế giới, niệm niệm chẳng quên, mang ư nghĩa này. Do vậy, hương và hoa là nhân, hoa nhân hạnh cảm quả đức, trang nghiêm” quả đức. Đối với tự thân, quả đức thanh tịnh, b́nh đẳng, giác như trong kinh đă nói, đó là quả, nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, trang nghiêm quả đức. Linh hiển trước cố” (khiến cho hiển hiện), c nhân Trung Quốc nói: “Tồn ư nội, nhi h́nh ư ngoại” (chất chứa bên trong, s th hiện ra bên ngoài). Trong tâm quư vị có thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, liền hiện ra ngoài. Trong tâm người ta hoan hỷ, quư vị sẽ thấy v mặt tươi cười. Người mang nỗi âu lo, quư v thấy sắc mặt h rất khó coi, đó là biểu hiện ra ngoài. Do vậy, nếu tâm địa quư vị thanh tịnh, tướng thanh tịnh liền hiện tiền; b́nh đẳng th́ tướng b́nh đẳng cũng sẽ hiện ra, đó là quả đức hiển trước (qu đức hiển lộ).

       Nhập thử tam-muội (nhập tam-muội này), nhập là khế nhập, quư vị chứng đắc, tu thành. Quảhiện kiến thập phương Phật cập Phật độ” (thấy thập phương Phật và cơi Phật trong hiện tại). “Hiện” () là hiện tiền (現前). Trong hiện tiền, quư vị thấy mười phương chư Phật, thấy Phật. Q vị cũng thấy các cơi nước của mười phương chư Phật. Mười phương Phật là thầy của chúng ta. Mười phương cơi Phật đạo tràng tu hành của chúng ta. Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện, lăo nhân gia suốt đời chẳng kiến lập đạo tràng, sao chẳng dựng đạo tràng? Nơi nơi chốn chốn đềucác cơi nước của mười phương chư Phật, chính ḿnh cần ǵ phải tự xây đạo tràng? Chính ḿnh dựng đạo tràng, tam-muội rất khó hiện tiền, sao? Quư vị có phân biệt,chấp trước, tâm quư vị không thanh tịnh, tâm quư vị bất b́nh đẳng, chẳng buông tập khí phiền năo xuống được. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta một chiêu này vô cùng cao minh, bỏ sạch hết thảy, chẳng mảy may lưu luyến thế gian này. Tự hành, hóa tha, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, nơi nào có duyên bèn đến đó, kết pháp duyên với hết thảy chúng sanh. Nghĩa trong kinh văn rộng lớn, chẳngngằn mé, đâu đâu cũng đều có thể thấy. ch này, chúng tôi nói đến đây, phía sau c̣n b sung rất nhiều điều.

       Hựu Gia Tường Sớ viết: Thử tam-muội giai sức Pháp Thân, cố vân Hoa Nghiêm” (Gia Tường Sớ lại giảng: “Tam-muội này đều dùng để trang hoàng Pháp Thân, nên gọi là Hoa Nghiêm”). Trong chữ Hoa Nghiêm (華嚴), Hoa là hoa lệ (華麗: rực rỡ, lộng lẫy), Nghiêm là trang nghiêm. Quư vị thấy bọn chúng ta tham d tiệc tùng, mặc l phục, đeo chuỗi châu ngọc. Đó là trang nghiêm, vậy th́ Hoa Nghiêm là dùng t d ấy. Dùng để trang nghiêm? Dùng tam-muội, dùng Hoa Nghiêm tam-muội để trang hoàng Pháp Thân, đó là Hoa Nghiêm. Chúng ta xem câu tiếp theo, câu này do cụ Niệm Tổ giảng: Nhân thử tam-muội, trang nghiêm Pháp Thân cố, dĩ thượng chư thuyết, giai minh Hoa Nghiêm tam-muội chi nghĩa” (Do tam-muội này trang nghiêm Pháp Thân, nên các thuyết như trên đều giảng rơ ư nghĩa của Hoa Nghiêm tam-muội), đều là ư nghĩa của Hoa Nghiêm tam-muội, tam-muội này có thể trang nghiêm Pháp Thân. Pháp Thân là ǵ? “Kỳ trung Hợp Tán sở vị ‘pháp giới duy tâm, danh Phật Hoa Nghiêm’; thử biểu Nhất Chân pháp giới duy thị tự tâm, vu thử liễu đạt, tức Hoa Nghiêm tam-muội (Trong ấy, thuyết “pháp giới duy tâm gọi là Phật Hoa Nghiêm” của sách Hợp Tán biểu thị: Nhất Chân pháp giới chỉ là tự tâm. Thấu đạt được điều này th́ đó chính là Hoa Nghiêm tam-muội). Cách giảng này rất hay. Nhất Chân pháp giới, nói thật với quư vị, Chân là ǵ? Theo định nghĩa trong giáo pháp Đại Thừa, h nói tới Chân th́ nó là tồn tại vĩnh hằng, bất sanh, bất diệt, vĩnh hằng bất biến, đó là Chân. Chúng ta hăy suy nghĩ, vạn sự vạn vật trong trụ, th ǵbất biến? Con người chúng ta, người sống trong thế giới này sanh, lăo, bệnh, tử, biến đổi trong từng sát-na. Con người già đi, chẳng phải là mười năm sau già hơn mười năm trước, chẳng phải vậy, mà là mỗi năm một già hơn! Nếu quư vị xét kỹ, mỗi tháng một già hơn, mỗi ngày một già hơn. Nói thật với quư vị, mỗi giây một già hơn, giây trước c̣n tr trung, giây sau đă già khọm. Sát-na chẳng trụ, chẳng ngưng nghỉ, luôn biến hóa, đó giả, chẳng thật. Đức Phật dạy chúng ta đạo lư này, [hễ th nào] hiện tượng ấy (hiện tượng sanh diệt, biến hóa), quư vị liền biết nó là giả, chẳng thật!

      Chúng ta thấy hoa cỏ, cây cối bên ngoài, hoa, cỏ, cây cối cũng là vô thường. Hoa nở, hoa tàn, Xuân sanh thành, H tăng trưởng, mùa Thu lá cây úa vàng, mùa Đông trút lá. V́ thế, nó cũng là thường, chẳng thật, là giả. Lại nh́n đến khoáng vật, núi, sông, đại địa cũng là vô thường, cũng biến hóa trong từng sát-na; v́ thế, biển xanh nương dâu! Quư vị chú tâm quan sát, [sẽ thấy] toàn thể vũ trụ đều biến hóa. Ban đêm chúng ta thấy, lúc trời quang đăng nh́n lên không trung, lượng, vô số tinh cầu, bằng mắt thường, chúng ta có thể thấy ước chừng hơn sáu ngàn ngôi sao. Nếu dùng loại viễn vọng kính thông thường, ước chừng có th thấy khoảng mười mấy vạn. Viễn vọng kính thiên văn thấy càng nhiều hơn. Những tinh cầu ấy thành, trụ, hoại, không. Quan sát t viễn vọng kính của đài thiên văn, ta thường thấy có những ngôi sao bùng nổ. Sau khi bùng nổ, chẳng c̣n thấy chúng nữa, chẳng c̣n nữa, đă tiêu mất rồi. Ta cũng phát hiện những ngôi sao mới xuất hiện, ch này vốn chẳng có ngôi sao nào, đột nhiên sáng bừng, có ngôi sao mới xuất hiện. Đó là tinh cầu có sanh, có diệt. Thông thường, qua viễn vọng kính thiên văn, chẳng phải bằng dụng c tinh vi, chúng ta đă thấy tinh cầu sanh diệt. thế, đức Phật nói thành, trụ, hoại, không, nói thế giới thành, trụ, hoại, không. Thứ ǵ bất biến? Dường như trọn chẳng t́m thấy!

      Trên thân chúng ta, trên thân thể, thật sự có thứ bất diệt như vậy, nếu đức Phật không dạy rơ, chúng ta đều b sót. Trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật đă nói với vua Ba Nặc, v́ vua BaNặc hết sức đau đớn, tuổi mỗi năm một già hơn, già rồi s chết, cảm nhận nỗi kh thường. Đức Phật khai thị, hỏi nhà vua: “B h mấy tuổi bèn thấy sông Hằng và thấy nước sông Hằng lần đầu?” Sông Hằng của Ấn Độ giống như Trường Giang (sông Dương Tử) hoặc Hoàng Hà của Trung Quốc, là một con sông rất lớn. Vua thưa: “Lúc ba tuổi”, m dẫn nhà vua đi qua sông Hằng, biết đó là nước sông Hằng. Đức Phật liền hỏi nhà vua: “Khi bệ h mười ba tuổi, già hơn lúc ba tuổi phải không?” “Đúng thế!” “Lúc mười ba tuổi, cái thấy của b h so với cái thấy lúc ba tuổi có biến hóa hay không?” Vua thưa: “Chẳng biến hóa. Người già đi, nhưng theo trẫm thấy, dường như chẳnghiện tượng lăo hóa”. Sau đó, hỏi vua từng mười năm một, hai mươi ba tuổi so với mười ba tuổi, ba mươi ba tuổi so với hai mươi ba tuổi, cuối cùng hỏi đến sáu mươi hai tuổi; năm đó, nhà vua sáu mươi hai tuổi. Sáu mươi hai tuổi đă già rồi. “Tuy đă già, tánh Thấy của bệ h già hay không?” Chẳng già! Nay chúng ta nói là tuổi tác đă cao, mắt đă kém rồi, mắt già, hoa mắt là ǵ? Đó là công c của quư vị vấn đề, chẳng phải tánh Thấy có vấn đề! Đeo cặp kính vào, lại thấy rơ ràng. Do vậy có th biết: Cái Thấy và tánh Thấy chẳng liên quan với nhau! Đó [vấn đề nơi] công cụ, công c b lăo hóa, đeo mắt kính vào liền giống như thu tuổi trẻ, ch rất nhỏ vẫn có th nh́n thấy. Đức Phật liền nói: “Thân thể của b h có lăo hóa, nhưng tánh Thấy chẳng b lăo hóa. Mỗi năm một già hơn, nhưng tánh Thấy chẳng b lăo hóa. Cái chẳng già là thật, nơi mắt gọi là Thấy, tánh Thấy; chẳng có sanh diệt, chẳng có hiện tượng lăo hóa. Nơi tai gọi là Nghe, tánh Nghe. Căn tánh của sáu căn thật; căn tánh của sáu căn là chân tâm, chẳng phải là vọng tâm. Nó có s liễu biệt, nhưng chẳng phân biệt. Liễu () hiểu, [liễu biệt là] thấy rất rơ ràng, nghe rất rơ ràng, chứng t căn tánh của sáu căn là thật. Sau khi thấy, bèn phân biệt, chấp trước, đó là vọng tâm. Vọng tâm thuận theo chân tâm, đồng thời khởi tác dụng, nhưng vọng là vọng, chân là chân. Vọngsanh diệt, chân chẳng có sanh diệt. Đoạn kinh văn ấy nói rất dài, vua Ba Tư Nặc nghe hiểu, hết sức hoan hỷ, biết trong cái thân sanh diệt này của chính ḿnh vẫn có một th bất sanh bất diệt tồn tại. Cái chẳng sanh diệt ấy là cái ta thật sự, được gọi là Pháp Thân. Pháp Thân là căn tánh của sáu căn, Pháp Thân là chân tâm, bất sanh, bất diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng đến, chẳng đi.

      Do vậy, đây nói là “Nhất Chân pháp giới chỉ tự tâm”, tâm hiện mà! Các tướng được hiện bởi tâm, phải hiểu tướng là giả, và cái tâm thể hiện (năng hiện) ấy là thật, tướng được hiện giả. Chân và vọng tuy ḥa hợp, nhưng chân chẳng phải vọng, vọng chẳng phải chân, nhất định phải hiểu rơ điều này. Kinh Đại Thừa lại nói chân và vọng chẳng hai, có nghĩa là ǵ? “Chân và vọng chẳng hai” là nói hai th đều chẳng tồn tại. Chân chẳng phải hiện tượng vật chất, cũng không phải hiện tượng tinh thần, lục căn chẳng tiếp xúc được! Có tánh Thấy hay không? Có, khẳng định có! Nếu chẳng, làm sao nó có th thấy được? chỗ nào? Chẳng thấy được! Chuyện này cũng rất khó hiểu, nhưng cũng chẳng phải rất khó hiểu, chúng tôi dùng tỷ dụ th́ chư vị có thể hiểu được. Chúng tôi sánh ví chân tâm với điện đang được dùng trong hiện tại, mọi người bèn d hiểu. Điện là một vật, mà cũng là một thứ hiện tượng vật chất, nhưng trong các vật dụng khác nhau, nó khởi tác dụng khác nhau. Nơi TV, nó có th hiện ra h́nh ảnh, giống như mắt th́ chúng ta có th thấy, tai bèn có th nghe. Nơi điện thoại, nó có th nghe âm thanh, vẫn là một th điện. Điện chẳng có hai, nhưng mỗi loại máy [bèn khởi tác dụng] mỗi khác; vật dụng khác nhau, nó khởi tác dụng khác nhau. Khi nó ch máy lạnh, nó c̣n tỏa ra gió mát để hưởng thụ. Nơi ḷ nướng, nó có th nấu nướng này nọ, hâm nóng thức ăn cho ta ăn. Công cụ khác nhau,sẽ khởi tác dụng không giống nhau. Chúng ta sánh ví điện như chân tâm, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là những công c khác nhau. mắt, nó liền sanh ra tác dụng thấy, thể thấy. tai, nó thể nghe, mũi, nó có thể ngửi, ở lưỡi, nó có thể nếm, nơi ư, có thể biết. Nơi các căn khác nhau, tức lục căn, nó khởi tác dụng khác nhau, thật ra, nó là một. Th này bất sanh, bất diệt, thứ này là thật. Cậy vào gi để tu chân, hễ tu th́ phải tu chân tâm, chỉ là tự tâm. Liễu đạt điều này bèn gọi là Hoa Nghiêm tam-muội. Quư vị thật s hiểu rơ, thật sự thông đạt chân tướng sự thật này, liền định ở nơi ấy. Tam-muội là ở chỗ này, chúng ta đă học trong phần trước, nhất tâm ch tr(an trụ nơi nhất tâm) là tam-muội.

      Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy người tabỏ thức dùng căn bèn thành Phật. V́ sao phàm phu chẳng thành Phật, mà thành phàm phu? Họ dùng thức, chẳng biết dụng tâm. Dụng tâm”ǵ? Dụng tâm dùng căn tánh của lục căn, căn tánh là tâm. Tâm thức sai khácchỗ nào? Tâm chẳng có vọng tưởng, chẳng có phân biệt, chẳngchấp trước, bất sanh, bất diệt; thức có vọng tưởng, có phân biệt,chấp trước, sanh diệt trong từng sát-na. Dùng căn, chẳng dùng thức, là ai? Pháp Thân Bồ Tát, trong giáo pháp Đại Thừa thường nói là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, các Ngài thành Phật như thế nào? Các Ngài dùng căn, chẳng dùng thức, bèn thành Phật. Các Ngài dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Do chúng sanh trong mười pháp giới đều dùng thức, tức là nói hphân biệt,chấp trước, có khởi tâm động niệm, lục đạo phàm phu trọn vẹn những th ấy, toàn bộ ba th phiền năo đều có. A La Hán và Bích Chi Phật đă đoạn Kiến Tư phiền năo, tức là chẳng chấp trước. Do không chấp trước, nên đắc thanh tịnh tâm, nhưng chưa đạt được b́nh đẳng, chưa đạt được giác. Tiến cao hơn, Bồ Tát, Phật đoạn Trần Sa phiền năo, cao hơn A La Hán, nhưng các Ngài c̣n có khởi tâm động niệm; khởi tâm động niệm Vô Minh phiền năo. Lại có thể đoạn tr Vô Minh phiền năo, tức là chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước; khi ấy, các Ngài dùng ǵ? Các Ngài dùng căn tánh của sáu căn, chẳng dùng thức, đó là thành Phật, vượt thoát mười pháp giới. Các Ngài trụ nơi đâu? Các Ngài trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của c Phật Như Lai, cơi ấy gọi là Nhất Chân pháp giới. Chúng ta cúng trái cây trước Phật, trái cây tượng trưng Nhất Chân pháp giới, chúng ta hy vọng có thành tựu như vậy trong một đời. vậy, biểu th pháp, nhắc nhở chính ḿnh, mà cũng nhắc nhở người khác, nhằm biểu th pháp. Nói theo sách Hợp Tán, Hoa Nghiêm tam-muội nhân quả trong tự tánh, chẳng phải nói đến ǵ khác.

       Như Gia Tường Sớ vân: Thử tam-muội giai sức Pháp Thân” (Như Gia Tường S nói: “Tam-muội này trang hoàng Pháp Thân”), Pháp Thân tự tánh, cái vị thử tam-muội tất trang nghiêm Pháp Thân” (có ư nói là tam-muội này ắt trang nghiêm Pháp Thân). Tiếp đó, nói rất hay, “Pháp Thân tức bổn diệu minh tâm, tức thị tự tâm” (Pháp Thân chính là tâm diệu minh vốn có, tức là tự tâm), đây là chân tâm của chính ḿnh, chẳng phải vọng tâm. Vọng tâm là A Lại Da. Trang nghiêm Pháp Tánh, đây là t tâm, Pháp Tánh, tự tánh. Đức Phật nói ra mấy chục danh xưng, nhưng đều là một chuyện. V́ sao là một chuyện mà đức Phật nói nhiều danh xưng như vậy? Đây là s khéo léo trong giáo học, đức Phật dạy chúng ta chớ nên chấp trước tướng danh tự, sao? Tướng danh t là giả, chẳng thật. Quư v chấp tướng danh t th́ sai mất rồi. Ch nên chấp trước tướng danh tự. Ch nên chấp trước tướng ngôn thuyết, ngôn thuyết cũng là giả, cũng chẳng thật. Trong những giả danh, giả tướng ấy, nếu quư vị có thể ngộ nhập nghĩa thật sự của chúng th́ là đúng, đó mới là học Phật. Chấp trước giả danh, giả tướng sai mất rồi, vĩnh viễn chẳng thấy tự tánh; đây, gọi t tâm tự tánh. Cố tri nhất thiết pháp, bất từng thử pháp giới lưu xuất” (V́ vậy biết, hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất), “pháp giới” tự tánh, c̣n gọi là Pháp Tánh, cũng gọi là tự tâm, bổn diệu minh tâm, t ch này lưu xuất, cuối cùng là như thế nào? Phục hựu hội quy thử pháp giới (rồi lại tr v pháp giới này), đến cuối cùng vẫn phải quy hoàn pháp giới này, tr v pháp giới ấy bèn thành Phật.

      Trong Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư, câu này đă được giảng rất rơ ràng, rất minh bạch, vũ tr do đâu mà ? Vạn sự vạn vật trong vũ trụ do đâu mà có? Buổi tối, chúng ta nh́n lên không gian, vô s các tinh hệ, tinh cầu do đâu mà có? Hiền Thủ quốc sư đă căn c trên những điều được dạy trong kinh Hoa Nghiêm, bảo chúng ta: T một Thể, Th ấy là tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Nói một danh t dài như thế đó, đấy là ǵ? tự tâm như chúng ta vừa mới học. T tâm tự tánh thanh tịnh viên minh thể. Nói nhiều như thế, ư nghĩa trong ấy cũng rất phong phú; chúng ta nói “t tâm th́ cũng chẳng d hiểu cho lắm. T tánh là tự tâm, trong tự tánhtrí huệ viên măn, có đức năng viên măn, đức năng là ǵ? Kiến văn giác tri (thấy, nghe, hay, biết) là Tánh Đức vốn sẵn có trong t tánh. Khi giác ngộ, khi minh tâm kiến tánh giác ngộ, liền hiện tiền, kiến văn giác tri hiện tiền. Nói thực tại như trong phần trước đă nói, trong hội Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn đă bảo “bỏ thức dùng căn, kiến văn giác tri là căn tánh của sáu căn, là chân tánh. Trong t tánhtướng hảo viên măn; tướng hảo viên măn y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, thảy đều trọn đủ. Do vậy, th cũng đều chẳng,chẳng phải vật chất, mà cũng chẳng phải tinh thần. Quư v chẳng th nói nó là (không có ǵ), trong Phật pháp nói nó là Không, dùng Không để h́nh dung nó. Nó không hiển lộ, nhưng trọn đủ. Khi có duyên, nó có th sanh ra vạn pháp, nó bèn hiện, bèn t lộ. vậy, khi nó chẳng hiện, không th nói nó là Vô; [khi nó] hiện ra, chẳng th nói nó là Hữu, sao? Cái hiện ra là huyễn tướng, chẳng thật. Tôi vừa mới nói, hiện tượng được hiện ra đều tướng sanh diệt. Tướng sanh diệt chẳng phải thật, bất sanh, bất diệt là thật. Quư vị thấy các tướng được hiện há có phải là bất sanh, bất diệt? Toàn tướng sanh diệt. Do vậy, nhất định phải hiểu chân tướng sự thật này, chẳng sanh chấp trước đối với hết thảy các tướng cảnh giới, sao? Tướng là giả, không tồn tại, hễ quư vị chấp trước trật rồi, không chấp trước là đúng. thể dùng nó, [nhưng phải là] diệu dụng, tức tùy duyên diệu dụng. Diệu dụng khi dùng bèn chẳng phân biệt, chẳngchấp trước, chẳng có khởi tâm động niệm, khởi tác dụng hoàn toàn giống như chư Phật Như Lai, đạo lư là như thế đó. Chúng ta ch nên không biết điều này.

      Quư vị thấy: Từ một Th khởi hai tác dụng, một Thể pháp giới này, từ pháp giới này mà lưu xuất. sao th khởi hai tác dụng? Trong kinh giáo Đại Thừa thường nói nhất niệm bất giác”. Nhất niệm bất giác th́ trong t tánh liền khởi tác dụng, biến thành A Lại Da, tức vọng tâm. Thể của vọng tâm chân tâm. Chẳng có chân tâm, vọng do đâu mà có? Giống như chúng ta đứng dưới mặt trời s có bóng, bóng do đâu mà có? Bóng do người có, người là chân tâm, bóng là vọng tâm. Nhưng h́nh và bóng chẳng tách rời, sao? Chúng tách rời nhau, sẽ chẳng thể tồn tại. Chúng chẳng thể tách rời, nên nói “chân và vọng như một; nhưng chúng là hai chuyện, chẳng phải một chuyện, quư vị nhất định phải hiểu rơ ràng. Chúng ta mê mê muội, không hiểu rơ, quên mất chân, ng vọng là chân!

      Sáu căn của mỗi người chúng ta đều có căn tánh, ai biết căn tánh của sáu căn? Đức Phật dạy, chúng ta mắt thấy, tai nghe, niệm thứ nhất chân tâm, kiến văn giác tri khởi tác dụng. Niệm thứ nhất quư vị c̣n chưa khởi niệm, ta nh́n, trừng mắt nh́n, vẫn chưa có phân biệt, c̣n chưa có chấp trước, tâm giống một tấm gương, soi bên ngoài rành rẽ, chẳng khởi phân biệt. Niệm th hai liền dấy lên phân biệt, dấy lên phân biệt là trật rồi, đó vọng tâm. Vọng tâm s phân biệt, chấp trước. Phân biệt là thức th sáu, tức ư thức. Chấp trước là thức thứ bảy, khởi tác dụng. Chủng t in dấu trong A Lại Da, nay chúng ta nói là “lưu ấn tượng”, ghi ấn tượng nơi kiến văn giác tri của quư vị. Ấn tượng ấy giống như được chép vào kho d liệu. A Lại Da là kho d liệu, vọng tâm khởi tác dụng, kho dữ liệu ghi lại ấn tượng, bèn gọi là Nghiệp. Nghiệp gặp duyên, quả báo liền hiện tiền. V́ vậy, niệm thứ nhất, một niệm bất giác chẳng có nguyên nhân. Niệm ấy có thật hay không? Chẳng thật, nếu thật, nó s có nguyên nhân thật sự, nhưngchẳng có nguyên nhân, nên chẳng thật; [do đó] gọi là vọng niệm, hoặc vọng tưởng. Phải chú ư ch Vọng. Vọng là v căn bản chẳng, dấy lên một niệm như thế. Nếu niệm ấy dừng lại, đ́nh chỉ, bèn trở về tự tánh, lập tức trở về tự tánh. Nếu từng niệm tiếp nối nhau, bèn chẳng thể quay về, nó liền lưu xuất. T pháp giới này lưu xuất cơi Thật Báo. T cơi Thật Báo lại lưu xuất cơi Phương Tiện. C vị phải biết: Cơi Phương Tiện tứ thánh pháp giới. T cơi Phương Tiện lại lưu xuất cơi Phàm Thánh, cơi Phàm Thánh lục đạo luân hồi, mê hết sức nghiêm trọng. Phật, Bồ Tát từ bi chỉ dạy, giúp chúng ta quay đầu, chúng ta t lục đạo trở lại tứ thánh pháp giới, t tứ thánh pháp giới lại tr v cơi Thật Báo, từ cơi Thật Báo lại trở về tự tánh, lại trở v ch phát xuất. Có người hỏi: Sau khi trở về, có thể nữa hay không, lại lưu xuất hay không, lại biến thành luân hồi ư? Đức Phật dạy: Vĩnh viễn s không! Sau khi đại triệt đại ngộ, vĩnh viễn chẳng mê lần nữa. Trong kinh Lăng Nghiêm đă giảng vấn đề này rất ràng. V́ thế, trong giáo pháp Đại Thừa, kinh Lăng Nghiêm được gọi là khai huệ Lăng Nghiêm”, nghĩa là kinh Lăng Nghiêm khai trí huệ, thành Phật Pháp Hoa”. Hai b kinh ấy cũng hết sức nổi tiếng trong Đại Thừa. Từ pháp giới lưu xuất, từ tự tánh lưu xuất; cuối cùng, vẫn tr về tự tánh, trở về tự tánh liền viên măn thành Phật.

      Chúng ta xem đoạn tiếp theo, tức là đoạn Tổng Tŕ. Tổng Tŕ là đà-la-ni, tiếng Phạn là Đà-la-ni, dịch sang nghĩa tiếng Hán Tổng Tŕ, [hàm ư] bao gồm hết thảy các pháp, nắm gi hết thảy các nghĩa. Nếu nói thông thường, quư vị nắm được tổng cương lănh, tổng nguyên tắc, bèn gọi là Tổng Tŕ. Cụ túc giả, sở cụ măn túc, cái vân nhất thiết đà-la-ni môn vô sở bất cụ dă (“cụ túc” là đầy đủ, trọn vẹn, ư nói: Hết thảy các đà-la-ni, không môn nào chẳng đầy đủ). Tôn giả A Nan đắc Văn Tŕ đà-la-ni, đắc pháp môn Tổng Tŕ này, đối với hết thảy các kinh do đức Phật đă nói, dẫu Ngài chưa nghe, nhưng vừa tiếp xúc đều hoàn toàn thông đạt, hiểu rơ. T Lục T Đàn Kinh, chúng ta cũng thấy, khi Hu Năng đại sư khai ngộ cũng đạt được [Tổng Tŕ]. Chúng ta biết: Hu Năng đại sư chưa từng đi học, không biết chữ, hai mươi bốn tuổi khai ngộ, ḥa thượng Ngũ T Nhẫn bèn truyền y bát cho Ngài. V́ sao chúng ta biết Ngài đắc đà-la-ni? Từ những ghi chép trong Đàn Kinh, chúng ta th thấy. Khi Ngài lánh nạn, trên đường qua thôn Tào Hầu, gặp tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng. Đó là lúc Ngài vừa mới nhận được y bát, Ngài bèn trốn đi, giữa đường gặp tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng. V tỳ-kheo-ni này th tŕ kinh Đại Niết Bàn, cũng là hằng ngày đọc tụng, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài! Cổ nhân khó có; v́ thế, người hiện thời chẳng bằng cổ nhân, từ ch này, ta thấy được thiện căn của cổ nhân, ni sư thật s hành! Kinh Đại Niết Bàn phân lượng rất lớn, hiện thời t Đại Tạng Kinh, quư v có th thấy kinh ấy hai bản dịch, một bản gồm ba mươi sáu cuốn, bản kia gồm bốn mươi cuốn. Do vậy, kinh rất dài, nhưng bà ta niệm hằng ngày. Thuở ấy, Huệ Năng đại sư mang thân phận cư sĩ, chưa xuất gia, người bên ngoài đều chẳng nhận biết Ngài. Ni sư niệm kinh đó, Ngài bên cạnh nghe. Sau khi niệm một đoạn, bà ta ngừng lại, Huệ Năng đại sư liền giảng cho tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng đại ư của đoạn kinh văn Ngài vừa nghe niệm. Bà ta nghe xong, hết sức kinh ngạc, Ngài giảng hay quá, bèn cầm kinh bổn hướng v Ngài thỉnh giáo. Huệ Năng đại sư nói: “Ta không biết ch”. Bà ta hỏi: “Ngài không biết chữ, v́ sao giảng hay dường ấy?” Ngài đáp: “Chuyện này chẳng liên quan đến biết chữ hay không biết chữ”. Đắc đà-la-ni, sẽ nắm được tổng cương lănh thuyết pháp của hết thảy chư Phật, nên bất luận kinh giáo ǵ, Ngài vừa nghe liền hiểu toàn bộ. Không ch là hiểu Phật pháp, mà pháp thế gian th ǵ cũng đều hiểu rơ, chẳng Ngài không hiểu. đó tự tánh của quư vị, trí huệ Bát Nhă trong t tánh của quư v khởi tác dụng, đạo lư là như vậy đó!

      Pháp môn Đại Tổng Tŕ, hết thảy chúng sanh ai nấy đều có. Chỉ v́ chúng ta đang mê, cũng có th nói là lục căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần, lập tức tiếp theo s là khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, cùng nhau dấy lên. V́ vậy, trí huệ đức tướng trong tự tánh đều không thể hiện tiền. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă giảng rất ràng, rất d hiểu, phàm phu thành Phật phải mất bao lâu? Trong một niệm! Một niệm giác, phàm phu bèn thành Phật. Một niệm mê, quư vị bèn thành phàm phu, chuyện là như vậy đấy! Giác là ǵ? Buông xuống liền giác. Buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống liền giác, quư vị hết thảy chư Phật chẳng khác ǵ nhau! sao không chịu buông xuống? Chúng ta thường nói lànghiệp chướng”, phiền năo tập khí quá nặng! Câu nói ấy đúng lắm, nghe hợp lư! Chúng ta đă lâu, quá sâu, đức Phật chỉ điểm rạch ṛi, nhưng chúng ta chẳng có năng lực quay đầu. Muốn quay đầu, nhưng không quay về được! Nói thật ra, thu ấy, Chương Gia đại sư đă từng nhắc nh tôi v chuyện này. Tôi đă cùng lăo nhân gia thảo luận vấn đề sau đây; đó là một vấn đề trọng yếu trong triết học:Rốt cuộc là biết khó, hành dễ, hay là biết dễ, hành khó?Thầy bảo tôi: “Phật pháp là biết khó, hành dễ”. Nói chung, chúng tôi cảm thấy: Biết chẳng khó, quư v vừa nói, tôi hiểu ngay, nhưng hành quá khó, sao tôi không thể buông xuống? V́ sao chẳng chuyển được? Thầy nói: “Anh chẳng hiểu biết thật sự! Nếu anh thật sự biết, s buông xuống ngay! Câu ấy khiến tôi chới với, chúng ta biết ǵ? Hiểu biết nửa vời, biết chẳng thấu triệt, biết chẳng viên măn. Thật sự biết thấu triệt, l nào chẳng buông xuống được? Thầy nêu t d để giảng cho tôi d hiểu. Thí dụ như chúng tôi ngồi cái bàn này, thầy nói: trên cái bàn này đặt một đống vàng, bên kia đặt một đống đồng thau. Nay muốn tặng cho anh một trong hai th ấy, anh hăy tự chọn lựa, anh chọn vàng hay đồng thau? Đương nhiên muốn lấy vàng, sao? Anh biết nó có giá trị rất cao, nên chọn lấy. Làm như vậy tức là anh đă Thủ (gi lấy), rất dễ dàng. Anh biết th ấy là quư báu, rất hiếm có. Thầy bảo tôi: Phật pháp là biết khó, hành d.

      Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm là “biết khó”. Thành Phật rất dễ dàng, như tôn gi Ca Diếp [chẳng hạn], Thích Ca Mâu Ni Phật cầm cành hoa mỉm cười. Khi tôn gi Ca Diếp thấy Thích Ca Mâu Ni Phật cầm cành hoa, bèn nh́n Phật cười, Thích Ca Mâu Ni Phật liền truyền pháp cho Ngài, Ngài đă khai ngộ rồi! Do vậy, chúng ta thấy Lục T Huệ Năng đại sư ở trong phương trượng thất, nghe lăo ḥa thượng giảng đại ư kinh Kim Cang, Ngài chẳng biết chữ, chắc chắn chẳng có kinh bổn, giảng đến câu ưng sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền đại triệt đại ngộ. Chẳng cần giảng nữa! Không chỉ kinh Kim Cang chẳng cần giảng, mà tất cả hết thảy các kinh Ngài đều hiểu toàn bộ, đó chẳng phải một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông” ư? Phật pháp đă thông đạt, pháp thế gian cũng thông đạt, quư v nói có d dàng lắm hay không? V́ thế, một câu Khẩu Đầu Thiền trong Tông Môn là “hiểu không?” Chữ Hiểu ấy tuyệt diệu tột bậc! H hiểu, quư vị liền khai ngộ. Chẳng hiểu th́ vẫn hoặc. Do vậy, h buông xuống liền hiểu, khó ch chúng ta không buông xuống được. Không buông xuống được là ǵ? Những ǵ đức Phật đă giảng đều là giả, nhưng chúng ta vẫn coi là thật; do chẳng coi nó là giả, vẫn y như cũ coi là thật, nên chẳng buông xuống được!

      Người có th buông xuống những th ấy, thật sự thấy chân giả, chẳng coi thân th là thật, đó là cửa ải đầu tiên. Cửa ải đầu tiên là thân, tức Thân Kiến. Q vị thấy [trong việc] đoạn phiền năo, đức Phật xếp th này đầu tiên, Thân Kiến! Th hai là Biên Kiến, thứ ba là Kiến Th Kiến, [thứ tư là] Giới Thủ Kiến, [thứ năm là] Kiến; trước hết, buông những th ấy xuống. Buông năm th kiến giải sai lầm xuống, trong Phật pháp, quư vị được gọi là nhập môn”, đệ t thật sự của Thích Ca Mâu Ni Phật. Hễ buông năm cách nh́n sai lầm ấy xuống, bèn là học tṛ lớp d b trong ngôi trường của Thích Ca Mâu Ni Phật, chưa phải là học tṛ chánh thức, buông xuống [toàn bộ Kiến Tư Hoặc] mới là chánh thức. Địa v Sơ Tín trong Thập Tín V Bồ Tát của kinh Hoa Nghiêm đă buông xuống; tuy địa vị ấy rất nông cạn, giống như lớp Một Tiểu Học, nhưng chúng ta ch nên xem thường họ. H thánh nhân, chẳng phải phàm phu. Tuy h c̣n trong lục đạo, chưa thoát khỏi lục đạo, nhưng quyết định chẳng đọa trong ba ác đạo, người ta bản lănh ấy! Trong lục đạo, qua lại tối đa bảy lần trong cơi trời hay nhân gian, liền vượt thoát lục đạo luân hồi. Người ta đă học lớp Một, chẳng lui sụt, ch có tiến cao hơn. Bảy lần qua lại bèn học tới lớp Bảy, lớp Bảy là A La Hán, lớp Tám là Bích Chi Phật, lớp ChínBồ Tát, lớp Mười bèn thành Phật, họPhật [trong mười pháp giới], được bảo đảm. Bất quá, tốc độ tiến triển của mỗi người khác nhau. Có người lợi căn, tốc độ tiến triển nhanh chóng. Có người căn tánh chậm lụt hơn một chút, tốc độ tiến triển khá chậm, nhưng h tuyệt đối chẳng thoái chuyển, chứng đắc V Bất Thoái. Nay chúng ta ngay c địa v thánh chúng nh nhoi ấy vẫn chẳng đạt được, nguyên nhân vẫn chưa thấy thấu suốt Thân Kiến, cửa ải đầu tiên khó nhất. Sau khi phá được cái ải này, những ải sau đó liền dễ dàng. Biên Kiến, nếu nói theo cách bây giờ, s là chẳng c̣n có quan niệm đối lập nữa! Chúng ta đối lập với k khác, đối lập với sự, đối lập với hết thảy vạn vật, đó là quan niệm sai lầm. Đối lập nếu nâng cao hơn, chúng ta nói mâu thuẫn”. Mâu thuẫn nếu nâng cao hơn bèn xung đột. Xung đột lại nâng cao hơn nữa, s là đấu tranh. Đấu tranh nếu nâng cao hơn nữa th́ chiến tranh. thế, rất nhiều phiền năo, tai nạn có cội nguồn là do đối lập ra. Chẳng có đối lập sẽ ḥa hài, thật sự ḥa hài, b́nh đẳng đối đăi, x ḥa thuận. Do v́ đối lập, họ biết đây là chuyện tốt đẹp, nhưng vẫn chẳng làm được, bị quan niệm sai lầm quấy phá, tạo thành chướng ngại.

      Tiếp đó nói: Đà-la-ni hữu tứ chủng” (Đà-la-ni có bốn thứ), kinh giáo thường nói như vậy. Thứ nhất, Pháp đà-la-ni, hựu danh Văn đà-la-ni, ư Phật chi giáo pháp văn tŕ nhi bất vong dă” (Pháp đà-la-ni, c̣n gọi là Văn đà-la-ni, đối với giáo pháp của Phật, nghe rồi vâng gi chẳng quên). Đây là loại th nhất. Tôn gi A Nan đắc Văn Tŕ chẳng quên, nên kết tập Kinh Tạng, mọi người đều tôn sùng A Nan, Ngài nhắc lại lần nữa các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng thu tại thế. Năm trăm vị đồng học, các v ấy đềuA La Hán, năm trăm vị A La Hán làm chứng cho Ngài, nghe Ngài nói. Nếu có ch nào nói sai, s nêu ra, câu ấy của A Nan phải gạt bỏ, v́ có người phản đối. A Nan phức giảng (trùng tuyên), năm trăm người đều chấp thuận, đều đồng ư, mới ghi chép lại, cách làm này khiến cho người đời sau sanh tín tâm đối với kinh điển. V́ thế, ngài A Nan m đầu [bằng câu]: “Như thị ngă văn, nói rơ những điều được nói sau đó hoàn toàn do Thích Ca Mâu Ni Phật nói, tôi đích thân nghe Thích Ca Mâu Ni Phật nói, gi ch Tín với đời sau. Đó cũng là như người Hoa nói “có trí nh mạnh m”, học rộng, nh dai, trí nh tốt, sau khi Ngài nghe xong, có th ghi nhớ. Ngài A Nan thật khó có, nghe xong, vĩnh viễn chẳng quên mất, phàm nhân chúng ta chẳng thể! Thu tôi c̣n trẻ, cũng có năng lực nghe rộng, nh dai, đại khái trước năm bốn mươi tuổi. Sau bốn mươi tuổi, dần dần thoái hóa, năng lực ấy dần dần kém hẳn. Khi tôi theo thầy Lư học Giáo, năng lực ấy rất mạnh, gần như tôi nghe lăo nhân gia giảng kinh một giờ, tôi phức giảng, tức là giảng lặp lại một lần, tôi thể giảng tối thiểu chín phần mười, có năng lực ấy. Hơn nữa, có th ghi nh không quên, có th nhớ suốt một tuần, trong ṿng một tuần tôi có th giảng tới chín phần mười. Do vậy, thu ấy học kinh giáo cũng rất thuận tiện, tiến b hết sức mau, đúng là “pháp h sung măn”.

      Thứ hai là Nghĩa đà-la-ni, ư chư pháp chi nghĩa tổng tŕ nhi bất vong dă” (Nghĩa đà-la-ni, đối với ư nghĩa của các pháp bèn tổng tŕ chẳng quên). Loại trước là nh k mỗi câu, là nói đến giáo, giáo pháp; đây là nói tới lư luận, nghĩa lư. Phía trước là trí nh mạnh mẽ, đây là sức lư giải mạnh mẽ. Thật s nghe hiểu, thật sự minh bạch. Đối với nghĩa lư bèn hiểu rơ, tổng tŕ, chẳng quên. Trong một thời gian dài, có th nói là suốt đời chẳng quên mất. Thời gian nh ngôn ng s ngắn hơn.

      Thứ ba, Chú đà-la-ni, ư chú tổng tŕ nhi bất vong dă” (Chú đà-la-ni, tổng tŕ các chú chẳng quên mất). Chú tương đối khó nhớ hơn, sao? Rất nhiều chú không phải là ngôn ng trong nhân gian. Theo cách nói của chúng ta trong hiện thời, chú là ngôn ng ngoài không gian, thuộc v chiều không gian khác, chúng ta thường nói làngôn ng của thần linh”. Khi đức Phật giảng kinh, h cũng đến nghe. Đức Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy theo từng loại đều hiểu”. Do vậy, đức Phật thuyết pháp chẳng có chướng ngại, bất luận kẻ nào đến nghe, đều nghe thấy đức Phật nói bằng ngôn ng của chính ḿnh, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Đức Phật có năng lực ấy, nhưng đức Phật rất từ bi, thấy [trong thính chúng] những chúng sanh chúng ta không nh́n ấy, đức Phật giảng nói xong, dùng ngôn ng của h nói mấy câu. Tuy nói mấy câu, không nhiều lắm, nhưng đă nêu hết những cương lănh và nguyên tắc trọng yếu mà đức Phật đă giảng trong b kinh này. Do những câu ấy chẳng phải ngôn ng trong nhân gian, ngườin Độ nghe cũng không hiểu. Đó là đối với mật chú [mà nói]. Chúng ta hiểu: Những v đại đức tu Mật Tông cũng chẳng phải là có th thành tựu ngay trong một đời. S thật này khiến cho chúng ta liễu giải: Bất c ai, bất luận quư vị học pháp môn nào, pháp thế gian hay Phật pháp, đều là nhiều đời nhiều kiếp tích lũy trí huệ, kỹ thuật, nên quư vị mới có th thông thạo, mới có th có thành tựu rất thù thắng, chẳng phải một đời, mà đều là đời đời kiếp kiếp tích lũy. Cùng một đạo lư như vậy, trong đời này, s phú quư bần tiện của mỗi người đều do qu báo. Qu ắt nhân, nhân đều do đời trước tích lũy. Mỗi người thành tựu đặc thù hoặc có cống hiến đặc thù trên một phương diện nào đó, nếu chẳng tích lũy t năm đời tr lên, h chẳng th đạt tới thành tựu này. Qua T Bi Tam Muội Thủy Sám, chúng ta thấy câu chuyện của Ngộ Đạt quốc sư, Ngài được coi là một vị xuất gia thành tựu, làm thầy của đế vương, được phong làm Quốc Sư. Trong T Bi Thủy Sám, tôn gi Ca Nặc Ca nói nhân duyên của Sư. Sư tu hành mười đời, lại c̣n là mười đời liên tiếp, mười đời đều được làm người, đều xuất gia, chẳng phải chuyện d dàng! Do vậy, chúng ta hiểu: Người trong thế gian địa vị càng cao, thời gian tu hành càng lâu. Tu tốt đẹp mới có thể đạt được, chẳng phải người b́nh phàm có th đạt được, của cải cũng do nhiều đời nhiều kiếp tu được, chẳng phải chuyện ngẫu nhiên.

      Chúng ta hiểu đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật, chúng ta sẽ chẳng hâm m những người phú quư, sao? Người ta trong đời quá kh tu hành tốt đẹp, ngày nay quả báo hiện tiền. Chúng ta nếu muốn giống như họ, hăy khéo hành, chúng ta có thể tích lũy, nói không chừng đời sau c̣n thù thắng hơn họ, đó là đạo lư nhất định. Nhưng học Phật phải giác, chớ nên mê, học Phật cầu vinh hoa phú quư trong lục đạo, đó là mê chứ chẳng giác. Quư vị địa vị cao, của cải to lớn, rất dễ tạo nghiệp. Nếu trong đời này, quư vị trong ngũ dục, lục trần, khẳng định đời sau quư vị b đọa lạc. Sai mất rồi! Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật chúng ta thị hiện, quư vị thấy Ngài sanh trong nhà đế vương, vứt b ngôi vua. Ngôi vua là th mọi người ắt tranh giành; người Trung Quốc nói: “Thiên tử sang quư, giàu khắp bốn biển”, phú quư tột đỉnh, đó là làm Hoàng Thượng. Đức Phật đă có ngôi vua trong tay, nhưng từ bỏ. Quư vị thấy Ngài lợi hại lắm, mười chín tuổi liền từ bỏ, b ngôi vua, đi ra ngoài học đạo. Ba mươi tuổi thành đạo, đại triệt đại ngộ thành đạo; sau khi thành đạo, suốt đời giáo học giống như Khổng lăo phu tử. Nhưng Khổng lăo phu t c̣n thu một chút học phí, đức Phật chẳng thu học phí. Mỗi ngày đi khất thực, giữa trưa ăn một bữa, ngh dưới cội cây, sống cuộc đời của một v Tăng khổ hạnh. Đó là biểu diễn cho chúng ta xem, khiến cho chúng ta suy nghĩ, sao Ngài chọn lựa [con đường] ấy? Nhất định c̣n cao minh hơn làm quốc vương! Làm quốc vương, rất ít kẻ không thoái đọa, rất ít, đó là ǵ? Các v “c thánh tiên vương” như người Trung Quốc đă nói, tuy làm quốc vương nhưng chẳng thoái đọa, giống như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vương, Vơ Vương, Châu Công trong lịch s Trung Quốc, đóquốc vương thánh hiền. Những vịy đời sau có th sanh lên trời làm thiên vương, họ thăng lên cao, chẳng b đọa lạc, họ làm quá nhiều chuyện tốt, đúng là v́ nước, v́ dân, chẳng chính ḿnh, chẳng biết đến chính ḿnh. Sau Văn Vương, Vơ Vương, Châu Công, chưa từng nghe nói những v thánh vương như vậy. thế, những điều này đều đáng cho chúng ta suy nghĩ sâu xa, đáng cho chúng ta học tập. Nay chúng tôi mới thật sự hiểu, con đường tu học Phật pháp là đại đạo quang minh thù thắng khôn sánh. Đặc biệt Tịnh Tông dạy chúng ta không ch có th vượt thoát lục đạo trong một đời này, mà c̣n vượt thoát mười pháp giới. Nhất là bộ kinh này bảo đảm chúng ta trong một đời có th sanh về thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng giống như là nói đảm bo quư v chứng đắc Phật quả viên măn rốt ráo ngay trong một đời, trong tất cả các pháp môn, chẳng t́m thấy pháp th hai! Chúng ta phải thật sự hiểu rơ, thật sự minh bạch, đối với chính ḿnh, [quả thật là] hết sức may mắn, đời này đúng là khó có, thật s chẳng d dàng!

      Chúng ta lại thấy phía dưới c̣n giải thích, giải thích về chú ngữ. Chú giả, Phật, Bồ Tát tùng Thiền Định sở phát chi mật ngôn cú, hữu bất trắc chi thần nghiệm, danh vi C đà-la-ni (Chú là câu nói bí mật, có oai lực thần dị khôn lường do Phật, Bồ Tát từ trong Thiền Định phát ra, nên gọi là Chú đà-la-ni), đây là nói về thần chú. Trong đoạn trước, tôi đă nói thần chú là ngôn ngữ của quỷ thần, đó là một loại. Ở đây nói [tới một loại khác], không phải là ngôn ngữ của quỷ thần, những câu nói mật của chư Phật, Bồ Tát từ Thiền Định rất sâu phát ra, chỉPhật, Bồ Tát biết, giống như là mật mă của các Ngài. thể giao tiếp với chư Phật, Bồ Tát, trong một thời gian rất ngắn có th chuyển giao tin tức không ngằn hạn, nội dung bao hàm hết sức phong phú, phàm phu chúng ta chẳng th tưởng tượng được! Do vậy, có oai lực thần dị không lường nổi, chẳng có cách nào tưởng tượng loại cảm ứng ấy. Đó là C đà-la-ni. Nghĩa phiên chi danh, hữu tứ” (dịch theo ư nghĩa, thành ra bốn tên), tức là nói đến Chú th́ Chú có bốn ư nghĩa. Thứ nhất là Minh (), thứ hai là Chú (), thứ ba là Mật Ngữ (密語), thứ tư là Chân Ngôn (真言). Đây đều là những tên gọi khác của Chú, là tên riêng của Đà-la-ni. Tạng Kư vân: Phàm phu Nhị Thừa bất năng tri, cố viết Mật Ngữ (Bí Tạng Kư[2] chép: “Phàm phu, Nhị Thừa đều chẳng th biết, nên nói là Mật Ng”), cũng chẳng có giải thích. Như Lai ngôn chân thật vô hư vọng, cố viết Chân Ngôn” (Chân ngôn của Như Lai chân thật, chẳng hư vọng, nên gọi là Chân Ngôn). Trên thực tế, C vẫn có ư nghĩa, nhưng Thượng Sư Mật Giáo không giảng cho quư vị, ch dạy quư vị niệm. Đây cũng là một pháp môn rất thù thắng trong Phật pháp. sao? Nếu giảng cho quư vị, quư v liền phân tâm. Chẳng giảng cho quư vị, do không biết ư nghĩa, quư vị một mực niệm là được rồi, d đắc tam-muội, dễ đắc Định. Định có thể khai trí huệ, đó cũng là pháp môn rất xảo diệu.

      Nhưng gặp phải căn tánh giống như tôi th́ không được! Nếu tôi không hiểu ư nghĩa, tôi không chịu học, s chấp trước như thế, đó là tật xấu của thành phần tri thức. Do vậy, thu ấy, tôi theo Chương Gia đại sư học Phật pháp, Ngài cũng dạy một bài chú, bảo tôi niệm. Bài chú ấy rất thông dụng, rất ph biến, người theo Mật Giáo đều biết niệm, tức là Lục T Đại Minh Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài dùng tiếng Tây Tạng dạy tôi, niệm “Án, ma-ni bát-mê hồng, tôi liền hỏi lăo nhân gia [bài chú ấy] có nghĩa là ǵ? Ngài liền giảng cho tôi, thông thường Ngài chẳng giảng, Ngài dạy tôi ư nghĩa khiến cho tôi hết sức hoan hỷ. Án (Aum) thân thể, Ngài giải thích từng ch một. Ma-ni (Maṇi) hoa sen, “Bát-mê” (Padme) là ǵn giữ, “Hồng (Hūṃ) là ư. Quư vị thấy thân, hoa sen, ǵn giữ, ư”, đó là ng pháp Ấn Độ. Nếu đọc theo người Trung Quốc s là Ǵn giữ thân tâm (ư là tâm) giống như hoa sen”, Ngài giải thích cho tôi như vậy. Ư nghĩa này hay lắm, khiến cho quư vị thời thời khắc khắc nghĩ tưởng, ǵn gi thân tâm giống như hoa sen, sanh t bùn lầy, nhưng chẳng nhơ bẩn, mang ư nghĩa này! Bùn lầy tượng trưng cho lục đạo, hoa sen và nước tượng trưng tứ thánh pháp giới, tức là tứ thánh pháp giới trong mười pháp giới. Hoa n trên mặt nước, cho thấy nhiễm và tịnh thảy đều chẳng nhiễm. Không ch lục đạo bất nhiễm, pháp giới thanh tịnh cũng chẳng nhiễm, đó là tịnh chân thật! V́ thế, trong chú ng có rất nhiều điều vẫn cần phải nói. Nói ra, s giúp cho người ta tu hành. Tu hành trong Mật Tông nhấn mạnh Tam Mật Tương Ứng, [tức là] miệng niệm chú, tay kết ấn, trong tâm quán tưởng. Nếu quư vị không hiểu ư nghĩa, chẳng có cách nào quán tưởng. Khi không có cách nào quán tưởng, họ quán tưởng ǵ? Quán tưởng một câu chú ng ấy, h nghĩ đến câu ấy, nhưng ư nghĩa của chú ng th́ không biết. Giống như chúng ta hiện thời niệm A Di Đà Phật, trong tâm chúng ta nghĩ đến A Di Đà Phật, ư nghĩa như vậy. Do vậy, sau khi thầy truyền dạy chú ngữ ấy, tôi mới hiểu: Trong chú ng có rất nhiều điều thật sự giống như cái mà chúng ta gọi là “cách ngôn”, quá hay! Thời thời khắc khắc nhắc nh chính ḿnh.

      Ư nghĩa th tư là Nhẫn đà-la-ni, an trụ ư pháp chi Thật Tướng, vị chi Nhẫn. Tŕ Nhẫn danh vi Nhẫn đà-la-ni (Nhẫn đà-la-ni: An trụ trong Thật Tướng của pháp bèn gọi là Nhẫn. Giữ cái Nhẫn đó th́ gọi là Nhẫn đà-la-ni). Trong giáo pháp Đại Thừa, Nhẫn ư nghĩa khẳng định, thừa nhận, nên nói “nhẫn khả” (忍可), có nghĩa là “đồng ư”. Đối với kinh giáo và giáo huấn của chư Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức, thể hiểu, có thể khẳng định, chẳng hoài nghi, hành theo lời dạy, đó là Nhẫn. đây nói “an trụ ư pháp chi Thật Tướng”, câu này nói rất cao. Thật Tướng là ǵ? Thật Tướng là pháp tánh, tướng là giả, tánhchân. như trong phần trước, chúng ta dùng những lời đức Thế Tôn dạy vua Ba Tư Nặc trong kinh Lăng Nghiêm nhằm khiến cho vua đừng chấp trước nhục thân này. “Căn thân”: Mắt, tai, mũi, lưỡi thân Căn Thân; ch nên chấp trước những th ấy, phải an tr trong căn tánh của sáu căn, căn tánhThật Tướng. Thân th của mỗi người chúng ta là gi tướng, căn tánh của sáu căn là Phật tánh, chẳng phải linh hồn! Căn tánh và linh hồn có ǵ khác nhau? Đồng mà bất đồng, bất đồng mà đồng. Mê th́ gọi là linh hồn, chẳng mê bèn gọi là tánh, là cùng một chuyện. Sau khi chúng ta đă giác, thường gọi nó là “linh tánh”, chẳng gọi là “linh hồn”, mà gọi là “linh tánh”. Linh hồn chẳng thoát khỏi lục đạo, nó mê, nó luôn đi t́m cái thân trong lục đạo, đi đầu thai, đó là lục đạo luân hồi. Nó giác ngộ, A La Hán giác ngộ, buông xuống chấp trước, cũng chẳng chấp trước thân thể này, biết thân thể chẳng phải là Ngă, căn tánh trong lục căn nơi thân th là Ngă, sáu thức không phải là Ngă! Chấp trước sáu thức, đó linh hồn, tưởng sáu thức Ngă. Triết gia ngoại quốc đă nói: “Tôi suy nghĩ, nên tôi tồn tại”. Đó là chấp trước linh hồn, ngườiy chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. sao?Tôi nghĩ” th́ Nghĩ ǵ? Thức th sáu, tức ư thức. Người ấy biết thân chẳng phải Ta, Ta có th suy tưởng, đó là ta, cái có th suy nghĩ chính là ta! Thân chẳng phải là ta, cao minh hơn những k b́nh phàm một bậc, rất khó có, nhưng không thoát khỏi lục đạo luân hồi.

      Do vậy, an tr trong Thật Tướng của pháp là đúng. Trong hết thảy vạn vật, an tr trong Pháp Tánh; nơi thân thể chúng ta, bèn an tr trong t tánh của chúng ta, hoặc là [an tr trong] căn tánh của sáu căn th́ đúng. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói: Ĺa hết thảy tướng, tức là hết thảy tánh”. Ch cần chẳng chấp tướng, chẳng chấp trước thân tướng của chính ḿnh, đối với vạn vật cũng chẳng chấp trước h́nh tướng của chúng, biết chúng đều do mộttự tánh thanh tịnh viên minh thể” biến hiện. đây,tự tánh thanh tịnh viên minh thể” được gọi Thật Tướng của các pháp. Chúng ta gi cho tâm an tr nơi đây th́ gọi là Nhẫn. Tŕ nhẫn”, tŕǵn gi vĩnh viễn, đó cũng là tam-muội. Tâm quư v định ch này, bèn gọi là Nhẫn đà-la-ni. Đà-la-ni hễ đắc liền vĩnh viễn đắc, chẳng giống như tam-muội! Tam muội có th mất đi, ch đà-la-ni chẳng bị mất. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới ch này!

 

Tập 124

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm bốn mươi bốn, xem t ḍng th tám, xem t ch “bách thiên tam-muội” trong ḍng th tám.

      Trong đoạn kinh văn “cụ túc tổng tŕ bách thiên tam-muội”, trong phần trước đă học về Tổng Tŕ, nay xem tới phần “bách thiên tam-muội: Hội Sớ viết: Bách thiên tam-muội giả, chúng sanh vô lượng, tâm hạnh bất đồng, hữu lợi, hữu độn, ư chư kết sử, hữu hậu, hữu bạc, thị cố Bồ Tát hành bách thiên chủng tam-muội, đoạn kỳ trần lao” (Sách Hội S giảng: “Trăm ngàn tam-muội là v́ chúng sanh vô lượng, tâm hạnh bất đồng, có kẻ lợi căn, có kẻ độn căn. Đối với các kết sử, có kẻ sâu dầy, có kẻ mỏng nhẹ. V́ vậy, Bồ Tát thực hành trăm ngàn loại tam-muội để đoạn trừ trần lao cho họ”). Trước hết, chúng ta xem ch này, đây là một đoạn ngắn. Tam-muội Thiền Định, dịch sang nghĩa tiếng Hán th́ thường dịch là Chánh Thọ, tức là s hưởng th chánh đáng, đúng mực, bèn gọi là tam-muội. Tiêu chuẩn chánh đáng, đúng mực ch nào? Xa ĺa tập khí phiền năo th́ s hưởng th của chúng ta là chánh đáng, đúng mực. Nói cách khác,tự tư t lợi là chẳng chánh đáng, đúng mực, có đúng - sai, ta - người không chánh đáng, đúng mực, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, đều là chẳng chánh đáng, đúng mực. Do điều này có th biết, người thật s tu hành có công phu s đạt được sự hưởng th chánh đáng, đúng mực. Trong tựa đề kinh, chúng ta thấy nửa đoạn [trước] giảng v quả đức. Q vị tu hành thành tựu, quả đức hiện tiền, đó là Đại Thừa Lượng Thọ Trang Nghiêm. Chúng ta suy nghĩ cái qu ấy, quả đương nhiên có nhân. Quả ấy rất thù thắng, nhân đương nhiên thù thắng. Nhân ǵ? Thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, đó là tiêu chuẩn của tam-muội hiện tiền. Nếu chúng ta đắc thanh tịnh tâm, bèn gọi là đắc tam-muội; tâm không thanh tịnh, bèn chẳngtam-muội. Nếu tâm là tâm b́nh đẳng, đó là tam-muội càng sâu hơn. Giác ch không mê, đó là tam-muội nơi qu địa của chư Phật. V́ thế, năm ch ấy là s tu của A La Hán, Bồ Tát Phật.

      sao có trăm ngàn tam-muội? Trên thực tế, không ch là trăm ngàn, mà là vô lượng, vô biên. sao? Chúng sanh vô lượng. Chúng sanh có phạm vi bao quát cùng rộng, không ch là nhân loại. Đối với hai ch chúng sanh, các hiện tượng do các duyên ḥa hợp sanh khởi đều gọi làchúng sanh”. V́ thế, chúng sanh được hiểu theo nghĩa rộng, tr con người ra, tất cả thực vật và động vật đều là chúng sanh. Thực vật cũng chúng sanh, khoáng vật cũng là chúng sanh. Hiện tượng tự nhiên cũng do các duyên ḥa hợpsanh khởi. Chúng ta thấy mây trên hư không, đó là do các duyên ḥa hợp mà sanh, nên cũng gọi là chúng sanh. thế,chúng sanh” phạm vi rất rộng. Trừ những th này ra, c̣n có những loài chúng ta không thấy, các chúng sanh thuộc những chiều không gian khác biệt, đều có y báo và chánh báo trang nghiêm, y báo và chánh báo qu thật vô lượng vô biên. Tâm hạnh của hết thảy chúng sanh bất đồng. “Tâm là khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, đó tâm. “Hạnh” là tạo tác, tạo tác cũng khác nhau. Phân chia đại lược, tức là như kinh Phật thường nói th́ có hữu t́nh chúng sanh, căn tánh có lợi và độn. Lợi () thông minh, độn () ngu độn, do nguyên nhân nào? Hai câu kế tiếp đă nói rơ: “Ư chư kết sử”, Kết () phiền năo, Sử (使) cũng là phiền năo. Thông thường, ch S ch Thập Sử, tức Kiến Tư phiền năo. Hữu hậu, hữu bạc” (có dầy, có mỏng) Nếu là k phiền năo dầy bèn ngu độn, nếu phiền năo mỏng nh liền tỏ l s thông minh, mức độ dầy mỏng khác nhau. Trong nhà trường, cùng học một cấp lớp, chúng ta thường nói cùng một cấp lớp th́ tŕnh độ không chênh lệch cho lắm, nhưng khi thi cử, th t vẫn khác nhau, t đứa đậu hạng nhất đến đứa đậu hạng bét, quư vị thấy đó, vẫn chẳng giống nhau. Nói cách khác, nói theo tâm hạnh, tuyệt đối chẳng t́m thấy hai người hoàn toàn giống nhau, chẳng th được! Đến khi nào bèn giống nhau? Thành Phật sẽ giống nhau, hoàn toàn như nhau. sao? Phiền năo đều đoạn hết, đoạn sạch c rồi! Do vậy có th biết: Đẳng Giác Bồ Tát cũng bất đồng, mọi người đều Đẳng Giác Bồ Tát, nhưng trong các v Đẳng Giác Bồ Tát, phiền năo tập khí vẫn dầy, mỏng khác nhau, chúng ta có thể lư giải điều này. Chỉ có đạt đến Phật quả rốt ráo mới thật s giống nhau, mảy may phiền năo tập khí đều chẳng. Chính v́ t́nh h́nh này, nên “Bồ Tát hành bách thiên chủng tam-muội (Bồ Tát hành trăm ngàn loại tam-muội).

      Bồ Tát trong hết thảy cảnh duyên, hoàn cảnh bất đồng, cảnh là hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh khác nhau, duyên là hoàn cảnh nhân sự. Hoàn cảnh vật chất bất đồng, hoàn cảnh nhân sự bất đồng, tâm các Ngài định một chỗ. Tam-muội là tâm định một chỗ, tương ứng với Tánh Đức. Nói cách khác, trong hết thảy cảnh duyên, “cảnh duyên” là hai ch thường dùng trong nhà Phật, tức hoàn cảnh vật chất và hoàn cảnh nhân sự, chẳng b hoàn cảnh bên ngoài quấy nhiễu, trong tâm có ch ư, đó là tam-muội. Do vậy, tam-muội cũng được gọi là Vi (làm), trong phần trước chúng ta đă học, tâm chúng ta định ở một chỗ. Người học Phật địnhchỗ nào? Nhất định phải định trong Tam Học Giới, Định, Huệ, chúng ta sẽ chẳng b cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu, cũng chẳng c̣n mê trong cảnh giới, tạo các điều lành, bất thiện nghiệp mê. Nếu giác chứ không mê, trong tâm s có ch tể. Nói nông cạn, tuy chúng ta k mới học Phật, nếu thiện căn của chúng ta sâu dầy, cảnh giới hiện tiền, chúng ta biết phải đối phó như thế nào, biết cư x rất viên măn trong cảnh giới, lại chẳng tạo nghiệp. Đó là “hành Bồ Tát đạo”. C̣n có thể giúp đỡ người khác, lợi ích chúng sanh, đóBồ Tát hạnh, trăm ngàn tam-muội của Bồ Tát khởi tác dụng. Đoạn kỳ trần lao” (đoạn trần lao cho họ), trong tâm hạnh, đầu tiên là đoạn trần lao của chính ḿnh, trần lao” (塵勞) phiền năo; sau đấy, giúp đỡ người khác, giác ngộ chúng sanh.

      Tiếp đó, nêu t d để nói, thí như v chư bần nhân dục linh đại phú, đương bị chủng chủng tài vật, nhất thiết bị cụ, nhiên hậu năng tế chư bần giả” (ví như v́ muốn giúp cho người khác được giàu to, hăy nên chuẩn b đầy đủ các món tài vật. Đă chuẩn b đầy đủ hết thảy rồi th́ mới có th giúp đỡ những người nghèo). Đây là nêu t dụ để nói. Bồ Tát v́ muốn giúp những k nghèo ấy, nay gọi là “thoát nghèo, xóa sổ đói nghèo”, đạt được của cải to lớn, v Bồ Tát ấy nhất định có năng lực, đă chuẩn b khá nhiều tài vật, hết thảy đều chẳng thiếu khuyết; có như vậy th́ mới có th cứu giúp hết thảy chúng sanh bần khổ. Ch “bần khổ” có ư nghĩa rất sâu, rất rộng. Những k sơ học b́nh phàm chúng ta thấy nói bần khổ, bèn tưởng là bần trong bần phú (nghèo, giàu), đều nghĩ đến tài vật. Phật pháp có ư nghĩa sâu xa! Tài vật nghèo khổ chẳng tính là bần khổ, thật sự bần khổ là ǵ? Chẳng có đạo! Chẳng có đạo mới là nghèo thật sự. Cũng có th nói, người chẳngGiới, Định, Huệ k thật sự nghèo. Dẫu trong hiện tại, kẻ ấy có rất nhiều của cải, có địa v rất cao, chúng ta thường nói kẻ ấy người phú quư, phú quư quả báo. sao có? Trong đời q khứ, tu tập, tích lũy phước đức; do tích phước nên kẻ ấy giàu có, do tích đức nên kẻ ấy sang quư, k ấy vừa giàu, vừa sang. Nếu suốt đời này hưởng phú quư, chẳng h tích đức tu phước nữa, kẻ ấy thật sự bần khổ. sao? Hưởng hết phước báo ấy, sau khi hưởng hết phước báo, kh nạn liền đưa tới, phải biết thời gian trôi qua rất nhanh, chớp mắt đă thấy ngay! Trong kinh Phật, chúng ta thường thấy các trường hợp như vậy rất nhiều. Bậc đại phú trưởng gi tu tập, tích lũy cái nhân tối thiểu t ba đời tr lên. Trong nhân gian, làm đế vương, nay gọi là người lănh đạo quốc gia, phước báo to lớn, tối thiểu ngườiy tích lũy công đức đă mười đời. Chẳng có mười đời [tích lũy công đức], s không thể đạt đến địa v ấy. Do vậy, đây là chuyện k b́nh phàm chẳng th làm được. Quư vị chẳngphước báo ấy mà quư v đạt được, tai họa liền xảy tới, hoặc q vị ngă bệnh, hoặc th q vị mắc bệnh chết ngỏm. Q vị thấy đạt được địa vị, nhưng chẳng hưởng phước, v́ chẳng có phước báo to lớn ngần ấy. Ngoài ra là những tai họa ngang trái, tức là tai nạn ngoài ư muốn. Những nghiệp nhân quả báo đều ở trước mặt chúng ta, quư vị chú tâm quan sát rành mạch, [sẽ thấy] chẳng sai mảy may! Chúng ta hiểu đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật, mới biết tu tập, tích lũy công đức trọng yếu dường ấy. Đức Phật dạy chúng ta tu công đức, không khuyên chúng ta tu phước đức, sao? Phước đức chỉ trong nhân thiên, quả báo ở trong cơi trời người, chẳng thể vượt thoát tam giới. Đức Phật dạy chúng ta tu công đức, Côngǵ? Công là công phu. Công phu là ǵ? Công phu tam-muội, Tam Học Giới, Định, Huệ. Giới là phương pháp, do Giới đắc Định, Định tam-muội, do Định khai Huệ, Định - Huệ có thể vượt thoát tam giới lục đạo. Định - Huệ nếu gặp Tịnh Tông, quyết định được sanh v Tịnh Độ, phước báo ấy quá lớn. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, phước báo b́nh đẳng với chư Phật Như Lai, thế giới ấy là một thế giới b́nh đẳng. Phước báo thứ nhất là th mạng lượng. C vị phải biết: trong thế gian này, th mạng rất hữu hạn. Bao nhiêu người hâm mộ một trăm tuổi; thật ra, một trăm tuổi cũng chỉ một cái khảy ngón tay mà thôi. Trên Đao Lợi Thiên một ngày, một ngày trong Đao Lợi Thiên một trăm năm trong nhân gian chúng ta, các đồng học học Phật chớ nên không biết điều này.

      Do vậy, chúng ta b́nh thường phải đổ công dốc sức tu luyện, công tu như thế nào? Cổ thánh tiên hiền đă nêu ra rất nhiều hạng mục và đức mục. Trong những năm qua, chúng ta cùng nhau học tập Đệ Tử Quy, đó là giới luật. Không chỉ là giới luật, c̣n căn bản giới. Nói cách khác, chẳng làm được Đệ Tử Quy, những th khác đều chẳng thể thành tựu, căn bản của căn bản. Đệ Tử Quy học được th́ [những th khác] đều có thể làm được. Nếu tiến cao hơn một bước, bèn học Cảm Ứng Thiên. Cảm Ứng Thiên giáo dục nhân quả; Ấn Quang đại sư hết sức coi trọng, suốt đời toàn tâm toàn lực đề xướng. Vào đời Thanh trước kia, cư sĩ Châu An Sĩ hai câu danh ngôn, ông nói: Ai nấy đều tin nhân quả, đó là đạo khiến cho thiên hạ đại trị”. “Đại trị” là đời thái b́nh thịnh trị, cũng nói nhân dân nơi ấy hạnh phúc m măn, mỗi người tin nhân quả đều thể làm được. Ông ta nói: Ai nấy không tin nhân quả, đó là đạo khiến cho thiên hạ đại loạn”. Hiện thời thiên h đại loạn, sao? Mọi người không tin nhân quả. sao không tin nhân quả? ChẳngĐệ Tử Quy, cũng có nghĩa là quy c làm người chẳng, tiêu chuẩn làm người chẳng. Nếu con người rời khỏi tiêu chuẩn làm người, cổ nhân nói rất hay, con người cầm thú có khác ǵ nhau? S dĩ, con người khác cầm thú ch con người biết lễ, con người hiểu lễ. Đệ Tử Quy thuộc loại lễ giáo, nên nó là căn bản. Nếu chúng ta muốn học giáo dục nhân quả, trước hết phải làm người cho tốt, điều này rất trọng yếu, sau đó mới th thực hiện giáo dục nhân quả. Vun bồi hai căn bản ấy, Thập Thiện Nghiệp Đạo của nhà Phật cũng rất d thực hiện, chẳng khó khăn tí nào. Đó là giáo dục truyền thống mấy ngàn năm của Trung Quốc, căn bản to lớn. V́ thế, chúng ta phải đặc biệt coi trọng.

      Trăm ngàn tam-muội, vô lượng tam-muội, đều sanh từ căn bản này! Nếu chẳng có căn bản này, quyết định chẳng đạt được tam-muội, cũng tức chúng ta không đạt được sự hưởng thụ chánh đáng, đúng mực. Học Nho th́ s hưởng th chánh đáng, đúng mực “bất diệc duyệt hồ” (cũng chẳng vui sao), kẻ ấy sung sướng. S hưởng thụ chánh đáng, đúng mực trong Phật pháp là “thường sanh tâm hoan hỷ, pháp h sung măn”. S hưởng th ấy chẳng liên can ǵ đến địa vị của cải. Người học Phật dẫu nghèo hèn, chẳng được phú quư, cũng vẫn vui sướng, pháp h sung măn giống như Bồ Tát. Giống như thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, quư v thấy trong Tăng đoàn, trong kinh chúng ta thường thấy Thường Tùy Chúng của đức Thế Tôn là một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, mỗi ngày ra ngoài khất thực, ngh dưới gốc cây, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, nh́n vào bất cứ ai đều thấy v mặt họ tươi cười, trên thân chẳng có th ǵ, nhưng h sung sướng khôn sánh. V́ sao sung sướng, hạnh phúc như vậy? Họ đắc tam-muội, đạo lư ch này, người đắc tam-muội hưởng th chánh đáng. Người b́nh phàm chúng ta hưởng th chẳng chánh đáng, đúng mực, người b́nh phàm th́ sao? Có năm loại Thọ, tức là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, những cảm th ấy đều chẳng b́nh thường. Thân có khổ, lạc, tâm ưu, hỷ, nên không chánh đáng, đúng mực. Thân chẳng có khổ, lạc, tâm chẳng có ưu, hỷ, tâm thanh tịnh hiện tiền, đó là chân lạc. Do vậy, đức Phật nói lục đạo phàm phu có năm thứ Thọ, khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. X Th khá lắm, X Th là khi nào? Trong một thời gian ngắn ngủi, thân chẳng có khổ hay lạc, tâm chẳng có ưu, hỷ, tốt lắm! Đó Chánh Thọ. sao nó chẳng th được coi là Chánh Thọ? thời gian quá ngắn; chẳng giống như người thật s tu hành, vĩnh viễn giữ được X Thọ, chẳng b mất đi. Xả Th tam-muội.

      Do vậy đối với sự tu hành, mấu chốt tu hành ǵ? Nguyên nguyên tắc trọng yếu nhất trong tu hành là ǵ?buông xuống. Bắt đầu t chấp trước, buông chấp trước xuống, đối với hết thảy người, sự, vật, chẳng c̣n chấp trước, quư vị sẽ hết sức sung sướng, đắc thanh tịnh tâm. Lại buông phân biệt xuống, không ch chẳng chấp trước, ngay c ư niệm phân biệt cũng chẳng dấy lên, đóBồ Tát, cao hơn A La Hán nhiều lắm. buông xuống thuộc về Định, Định th́ nhất định là đến một lúc nào đó s hoát nhiên đại ngộ, trí huệ mở mang, đó là giác. Giác là khai trí huệ, bèn thành Phật. Trí huệ đă khai, chẳng thấy mười pháp giới nữa, quư vị vượt thoát mười pháp giới, trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Thật ra, cơi Thật Báo của Phật cơi Thật Báo của chính ḿnh; khi ấy, t và tha bất nhị, chính ḿnh Phật là một, chẳng hai. “Nhập pháp môn Bất Nhị” như trong giáo pháp Đại Thừa thường chính là ư nghĩa này, quư vị chứng đắc pháp môn Bất Nhị. Pháp môn Bất Nhị là quư vị thấy Pháp Thân, khẳng định, thừa nhận nó, chẳng có tí hoài nghi nào. Vạn sự vạn pháp trong khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể, người ta thường gọi nó là “sanh mạng cộng đồng Thể”. Th ấy ǵ? Trong Hoàn Nguyên Quán của Hiền Th quốc sư, Th ấy được gọi tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Do vậy, học Phật hăy nên thường nghĩ tới Giới, Định, Huệ, phải ghi nh những điều này trong tâm, niệm niệm đều có thể tương ứng với Giới, Định, Huệ th́ chúng ta đang hành Bồ Tát đạo.

       Nhất thiết cụ bị” (hết thảy chuẩn bị đầy đủ), lượng tam-muội đă đầy đủ, vô lượng pháp môn đă đầy đủ th́ mới có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh. “Nhiên hậu năng tế chư bần giả” (sau đấy mới có th giúp các người nghèo), dạy hết thảy chúng sanh vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi, thoát khỏi nỗi kh trong lục đạo, vĩnh viễn thoát ly mười pháp giới. Trong đại vũ trụ, nhà Phật nói khắp pháp giới hư không giới, nơi nào thù thắng nhất? Hết thảy chư Phật khác miệng cùng lời bảo: Thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật. Chẳng phải riêng một ḿnh Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu, quư vị thấy bản kinh Di Đà chúng ta thường đọc là bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập, [trong ấy] sáu phương Phật khuyên dạy chúng ta. Trong kinh Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Th Phật, mười phương chư Phật khuyên chúng ta văng sanh. Phật quyết định chẳng nói dối, Phật mong mỏi chúng ta, Ngài ch có một mong mỏi là mong ước chúng sanh mau chóng thành Phật. Đó là bổn nguyện của chư Phật Như Lai. sao? hết thảy chúng sanh các Ngài là một Thể, chúng sanh thành Phậtcông đức của các Ngài viên măn. Chúng sanh c̣n chưa thành Phật th́ công đức của các Ngài c̣n có phần khiếm khuyết, đạo lư là như vậy đó. Chúng ta cũng hết sức khó có, đă hiểu rơ ràng, minh bạch, bèn h quyết tâm nhất định phải thành tựu trong một đời này. Thoát ly biển kh tam giới lục đạo, đó là thật sự thoát khỏi nghèo khổ, sanh v thế giới Cực Lạc bèn đắc đại phú quư.

      Tiếp đó, lại nói: Hựu như dục trị c bệnh” (Lại như muốn chữa các bệnh), chúng ta mong chữa tr rất nhiều th bệnh kh trong thế gian, người bệnh rất đáng thương, “đương bị chủng chủng chúng dược”, [nghĩa là] chúng ta nên chuẩn b đầy đủ các món dược phẩm. Trong Trung Y, s dụng dược vật đại khái hơn một vạn thứ. Trong hơn một vạn thứ, tám mươi phần trăm là thảo dược, tức thực vật. Động vật và khoáng vật cũng đều có, nhưng s lượng ít hơn, dược thảo chiếm tuyệt đại đa số, thể trị hết thảy bệnh. Nói tới ch này, hiện thời rất nhiều người tin tưởng Tây Y. Thu c̣n trẻ, chúng tôi cũng vậy, đau ốm toàn là chữa tr theo Tây Y trong bệnh viện. Tôi theo thầy Phương học Triết Học, thầy nói tới văn hóa truyền thống của Trung Quốc. Có một hôm nói đến y thuật, thầy bảo:Trung Y có năm ngàn năm lịch sử”. Thật vậy, chẳng giả, t lúc vua Thần Nông nếm trăm loại cỏ, đúng là năm ngàn năm, t Hoàng Đế đến thời đại chúng ta là bốn ngàn năm trăm năm. T Thần Nông đến Hoàng Đế năm trăm năm, đúng năm ngàn năm lịch sử. Chúng tôi tin tưởng trước thời Hoàng Đế đă có Trung Y, con người biết dược thảo thể chữa bệnh, chúng tôi có lư do để tin tưởng chuyện này. Trước thời Thần Nông Phục Hy Thị, Phục Hy cách Thần Nông tối thiểu cũng hơn năm trăm năm, coi như là nguyên khởi của lịch s Trung Quốc, ít nhất là từ năm ngàn năm trăm năm trở lên. Xa xưa hơn nữa là truyền thuyết, có lịch sử dài như thế, có trí huệ, phương pháp, kinh nghiệm và hiệu qu chữa trị. Thầy nói Tây Y chỉ có ba trăm năm, từ Đệ Nh Thế Chiến phát minh nền Tây Y chữa tr bằng chất kháng sinh. V́ thế, thầy hỏi tôi: “Anh tin tưởng ba trăm năm, hay tin tưởng năm ngàn năm?” Đương nhiên chúng tôi tin tưởng năm ngàn năm, lịch sử quá phong phú. Hiện thời, quư v đọc tin tức, thấy có báo cáo cho biết đă phát hiện loại virus mới, tên gọi của loại virus mới ấy tôi không nhớ, tất c các chất kháng sinh đều vô hiệu đối với nó. T chức Y Tế Thế Giới cảnh cáo, mong chúng ta phải đặc biệt cẩn thận đề pḥng, sao? Chưa có thuốc để chữa trị. Nếu b lây nhiễm, đại khái ch chừng ba, bốn gi là chết, rất nhanh. Đối với loại virus như vậy, Trung Y có phương pháp tr liệu hay không? Nay chúng ta vẫn chưa nghe thấy, nhưng chúng tôi có lư do để tin tưởng là có thể! Vấn đề là hiện thời Trung Y dần dần thất truyền, người học quá ít. Hơn nữa, Trung Quốc vào thời xưa, Trung Y luôn là đời đời truyền thừa, thầy lang tối thiểu là ba đời, [hành ngh Y] từ ba đời tr lên. H bắt đầu học Y t lúc nào? Ba, bốn tuổi liền bắt đầu học, người già chữa bệnh, h bên cạnh xem, có thể nhận biết huyệt đạo. Trẻ ba tuổi đă có th ch huyệt đạo rành mạch, họ hiểu biết; chẳng phải học trong viện Y Học dăm bảy năm, chẳng phải vậy! Trung Ycủa báu, có thể dưỡng sanh, có thể trị bệnh, chúng ta hăy nên coi trọng nó. Đó là quốc bảo của Trung Hoa, nội dung rộng lớn, tinh tường, sâu xa. Chữa bệnh th́ phải chuẩn b đầy đủ các món thuốc.

      Chúng ta thấy Thái Thượng Lăo Quân của Đạo Giáo đă nói tới một trăm th bệnh, và cũng nhắc tới một trăm món thuốc. Chúng ta hăy xem những căn bệnh ấy, chúng ta có vướng phải hay không? Trước hết, nói tới một trăm th bệnh.

      Thứ nhất hỷ n vô thường là một bệnh”, chúng ta có phạm phải hay không? Hỷ n vô thường, nếu phạm phải th́ phải có tánh cảnh giác, bệnh ấy ǵ?nguyên do khiến chúng ta nhiễm bệnh. Phàm là người ngă bệnh th́ là không b́nh thường, đúng mực, chẳng th khống chế tâm t́nh. Bản thân chúng tôi đă chính mắt trông thấy một trường hợp: Trong quá khứ, Hàn Quán Trưởng h tŕ chúng tôi ba mươi năm, con gái bà ta hai mươi tám tuổi qua đời, để lại hai đứa con thơ. Nửa năm trước khi bà qua đời bèn hỷ n vô thường; trước kia, bà ta chẳng như vậy. Do vậy bèn nói đây là điềm báo bệnh tật nẩy sanh, t l tâm t́nh đặc biệt nóng nảy, bộp chộp. Nếu chúng ta có t́nh h́nh ấy, cần phải đi khám sức khỏe. Người học Phật phải nên b́nh lặng, nên niệm Phật hiệu cho nhiều, lạy Phật cho nhiều ḥng tiêu nghiệp chướng.

      Thứ hai, quên nghĩa hám lợi là một bệnh”, lợi là th con người hiện thời ắt phải tranh giành. Không chỉ chớ nên tranh, c̣n phải suy nghĩ ta có nên giữ lấy [món lợi đó] hay không? Nếu đáng nên được th́ có th lấy, chẳng đáng nên được th́ đừng nên lấy! sao? Nếu quư vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn s biết. Trong Liễu Phàm Tứ Huấn có nói, trong cuộc đời của bất c một ai, “một miếng ăn, một hớp uống, không ǵ chẳng được định sẵn”. Nói cách khác, trong mạng quư vị có, chắc chắn quư vị sẽ đạt được, chỉ là thời gian có sớm hay muộn khác nhau. Trong mạng chẳng có, quư vị nghĩ trọn mọi phương cách, vẫn chẳng cầu được. Nếu cầu được, quư v chẳng ngă bệnh th́ cũng tai nạn xảy đến. Nói cách khác, quư vị chẳngcách nào hưởng thụ, do chẳng có s mạng ấy! Những chuyện này đều bày ra trước mặt chúng ta, nếu chư vị chú tâm quan sát sẽ hoảng nhiên đại ngộ. Lúc tôi mới xuất gia, tôi vừa xuất gia bèn bắt đầu giảng kinh. Đài Bắc có một người cũng có th coi như là bậc đại phú trưởng giả, nay ta gọi là nghiệp gia”, cất một ṭa biệt th lộng lẫy tại núi Dương Minh, dựng một căn biệt thự, tôi từng nơi đó một ngày, [v́] người thân thích của ông ta dẫn tôi đi chơi, nên đó một ngày. Sau này, tôi nghe nói, v nghiệp gia ấy qua đời, qua đời khi tuổi đă rất cao, nghe nói suốt đời ông ta cũng ch trong ṭa biệt th ấy một tối. B́nh thường cũng chẳng có ai đến, h dùng ba người đầy t trông nom ṭa biệt thự, quét dọn sạch sẽ, ba ngườiy hưởng phước đó, sống nhiều năm đó. Quư vị thấy: Suốt đời ông ta ch một hôm, quyền s hữu tài sản thuộc v ông ta, nhưng quư vị thấy ông ta chẳng có cách nào hưởng phước! Ba người hầu có quyền s dụng, họ hưởng phước, đó là do mạng vận đă định. Chuyện như vậy có th thấy khắp mọi nơi trên cả thế giới.

      Cổ nhân nói rất hay: “Cả đời đều là mạng, nửa điểm chẳng do người”. Cần ǵ [phải kh s như vậy]? Quư v là một cá nhân, toàn là do tham dục, dục vọng [chi phối], xây một ṭa biệt th to như vậy, nhưng chẳng có thời gian để hưởng thụ, suốt đời ch có một ngày! Tôi tin tưởng c̣n có những người suốt c một đời cũng chưa một ngày, sao mà kh thế? Sao không dùng món tiền đó để làm một ít chuyện tốt, giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn, h chẳng nghĩ tới điều này. Công đức giúp chúng sanh khổ nạn th mang đi được, ch ṭa biệt th ấy đâu th mang theo! Đức Phật có trí huệ, thường xuyên cảnh tỉnh chúng ta, chuyện có th mang theo được th́ làm nhiều, chuyện chẳng mang theo được, chẳng cần làm! Do vậy, chúng ta hăy nghĩ, điều ǵ có th mang theo, điều ǵ chẳng mang đi được. Trong thế giới hiện thời, chuyện tốt đẹp bậc nhất là ǵ? Chuyện tốt ǵ vậy? Dạy hết thảy chúng sanh làm người tốt, đấy mới là chuyện tốt lành to lớn nhất. Thích Ca Mâu Ni Phật thực hiện suốt đời, k t sau khi Ngài khai ngộ liền giảng kinh, dạy học, khuyên người khác không chỉ làm người tốt, c̣n là người tốt nhất trong những người tốt, làm Phật, làm Bồ Tát. Đức Phật người tốt đạt đến rốt ráo viên măn, chẳng có khiếm khuyết. Bồ Tát là hữu t́nh chúng sanh giác ngộ, tuy phiền năo tập khí c̣n chưa đoạn sạch, nhưng giác ch không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm, Ngài làm được. Do vậy, chúng ta phải lấy Phật Thích Ca làm gương, đối với chuyện lấy - bỏ, nhất định phải chú tâm cẩn thận, [xét coi] có hợp với đạo nghĩa hay không? Nói thông thường, nghĩa là hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp, điều ấy có th gi lấy. Nếu trái nghịch t́nh, lư, pháp, ch nên gi lấy. Bất c chuyện ǵ hễ nhân ắt có quả, chúng ta hăy cẩn thận nơi nhân, quả báo liền thù thắng, tránh khỏi kh quả!

       Háo sắc, hoại đức là một bệnh”, bệnh này hết sức phổ biến trong xă hội hiện thời. Con người không hiểu, Thái Thượng Lăo Quân coi trọng nhân quả. Quư vị thấy trong ba căn bản của chúng ta, Thái Thượng Lăo Quân Cảm Ứng Thiên, câu đầu tiên đă nói rất hay: Họa phước không có cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy”. Không ai cai quản quư vị, mà do chính quư vị tự ḿnh cảm lấy quả báo, thiện nhân, thiện quả, ác nhân, ác báo, nhân duyên quả báo chẳng sai sót mảy may, bất luận kẻ nào trong một đời đều chẳng th tránh khỏi! Trong xă hội hiện thời, quan h nam n rất hỗn loạn, mỗi ngày bao nhiêu k phá thai? Phá thai sát nhân. Luật nhân qu thường cảnh tỉnh chúng ta, đó là chuyện thật! Thiếu mạng phải đền mạng, thiếu n phải đền tiền. Đức Phật dạy cha con có bốn th duyên; chẳng có duyên, quư vị sẽ chẳng tr thành cha con, s chẳng tr thành người một nhà. Trong bốn th duyên ấy, th nhất là báo ân. Đứa con này ngoan ngoăn, d dạy, hiếu tử hiền tôn đến báo ân. Trong đời quá khứ, quư vị ân đối với nó. Loại th hai là báo oán, kiếp trước có hiềm khích, có oán hận, k ấy đến báo cừu, lớn lên s khiến cho quư vị tan cửa, nát nhà. Loại th ba là đ̣i nợ, đ̣i xong bèn ra đi. Loại th tư là tr nợ. Chẳngnhững duyên ấy, s không tr thành người một nhà. Trong kinh, đức Phật đă dạy rơ chuyện này, người một nhà có quan h ǵ. V́ thế, gia đ́nh phải có đạo, phải có quy củ. Nếu chẳng có đạo, chẳng có quy củ, gia đ́nh ấy bèn rối loạn. Phá thai đáng s lắm! Tôi nghe một đồng tu kể, không phải là ngườiy, mà là một người khác. Người ấy có một người bạn dường như đă phá thai hơn hai mươi lượt. Có người thông linh thấy theo sau cô ta là một bầy tiểu quỷ; thế, bản thân cô ta kh chẳng th nói nổi, thân th hết sức tệ, bệnh tật rất nhiều. Bệnh tật là ǵ vậy? Bệnh tật do oán thân trái chủ gây rối cô ta. Do vậy, người hiểu nhân qu quyết định chẳng dám làm chuyện này, sao? Tương lai phải đền mạng! Quư vị đời này giết một người, đời sau phải đền mạng cho k ấy. Quư v giết hại [hơn] hai mươi người, phải đền hơn hai mươi cái mạng! Chẳng phải là giỡn chơi đâu nhé! V́ thế, chuyện sát hại tánh mạng há có nên làm? Háo sắc, phá thai chính là sát nhân, tội ấy nặng lắm! Không chỉ là bại hoại đức hạnh, con người hiện thời chẳng nói đến đạo đức, nhưng hiểu theo l nhân qu th́ phải đền mạng, quư v có dám làm hay không? Đó là bệnh. Chúng ta thấy chứng bệnh ấy, thân th suy bại, đau kh khôn kham, nhưng chính cô ta chẳng biết nguyên nhân, người mắt sáng thấy rơ ràng, rành rẽ.

       Chuyên tâm yêu thương mê mệt là một bệnh”, nay chúng ta gọi “chuyên tâm yêu thương mê mệt là “sủng ái”. Q vị sủng ái một ai th́ người ta thường nói là “thiên v”. Nếu trong một gia đ́nh, quư v yêu thương một ai đó quá lẽ, k khác có phục hay không? Khiến cho người khác ganh tỵ, thậm chí khiến cho k khác báo thù, phiền năo liền xảy đến. V́ thế, chuyện này rất đáng sợ.

       Thù ghét, mong cho kẻ khác chết đi là một bệnh”. Oán hận kẻ ấy, không ưa, mong cho kẻ ấy chết ngay lập tức. Điều này thuộc loại oán hận, thuộc loại nguyền rủa, t nhiên kết thù chuốc oán. Cổ thánh tiên hiền khuyên dạy chúng ta, người trong thế gian oan gia hăy nên cởi gỡ, đừng nên trói buộc. Oán th́ phải nghĩ cách hóa giải, chớ nên kết oán. sao? Sau khi oán đă kết, s oan oan tương báo chẳng xong! Đời này là oan gia, đời sau có th là oán cừu càng sâu, quư vị nói có phải là phiền phức lắm không? Đôi bên đều đau khổ. Do vậy, sau khi giác ngộ, hăy nên buông xuống, đôi bên ch cần một bên giác ngộ, mối oán cừu ấy liền hóa giải. Bên giác ngộ luôn nghĩ đủ mọi cách để hóa giải, hoặc là trên phương diện vật chất, hoặc trên phương diện tinh thần, bồi hoàn, bù đắp, chẳng c̣n kết oán nữa, điều này rất quan trọng. Chẳng hạn như k khác hủy báng, lăng nhục, thậm chí hăm hại chúng ta, chúng ta gặp phải những chuyện ấy, trong tâm phải giác ngộ, sao h chẳng đối x với k khác như vậy, mà làm như thế đối với ta? Người học Phật chúng ta hiểu rơ, nhất định là trong đời quá khứ, ta có lỗi với k ấy. Nay k ấy đối đăi ta như vậy, ta cam tâm t́nh nguyện nhận lănh, chẳng có tâm báo thù, chẳngtâm oán hận, vậy là tốt, tiêu tr nghiệp chướng của chính ḿnh. Chúng ta chẳng có oán hận, chẳng báo thù, đối phương dần dần cũng nhạt bớt. Chúng ta thấy đối phương có những ưu điểm bèn tán thán họ; đối phương có khuyết điểm, chúng ta chẳng phê b́nh, một mực dùng thiện ư để đáp trả, thời gian lâu sau, mối oán kết ấy b hóa giải. Quyết định đừng nên báo thù, quyết định chớ nên oán hận, phiền phức rất lớn, chẳng th giải quyết vấn đề, c̣n tạo ra tranh chấp, gieo gốc họa đời đời kiếp kiếp, sai lầm quá đỗi! Chính ḿnh bồi dưỡng những đức hạnh ấy bằng cách nào? Đọc sánh thánh hiền, đọc sách Phật, quư v đọc nhiều s có trí huệ, biết nên x s ra sao. B Tát có trí huệ và đức hạnh như vậy th́ mới có th trong một đời hoàn toàn xóa tan, hóa giải [nỗi bất b́nh của] oán thân trái ch t trong vô lượng kiếp. Bồ Tát sanh tâm đại từ bi, giống như chư Phật Như Lai bỏ ḿnh v́ người, thành tựu hết thảy chúng sanh, nêu gương tốt cho hết thảy chúng sanh, giúp đỡ người khác phá mê khai ngộ, ĺa kh được vui, đó là trí hu hạnh.

       Tham dục phóng túng, ẩn giấu lỗi lầm một bệnh”, tham dục đă là lầm lỗi, lại c̣n phóng túng th́ c̣n ǵ để nói nữa? Tham lam không bờ bến, càng b hăm sâu hơn. Có lỗi phải sám hối, phải sửa đổi, không thể che giấu. “Tế” () là che giấu. Che giấu lỗi lầm chẳng cho người khác biết, đó là bệnh. Quư v càng tích lũy càng sâu hơn, đầu tiên là lỗi nhỏ, dần dần biến thành lỗi to, sai mất rồi! Ta có lầm lỗi, k khác phê b́nh, đó là chuyện tốt, sao?o đền xong! Nay đă báo đền xong xuôi, chúng ta phải sanh tâm cảm t k phê b́nh, đó là đúng. Nếu oán hận, sẽ có phiền phức to lớn, đến đời sau giải quyết chưa xong. Ch tốt đẹp lớn nhất trong học Phật tánh cảnh giác cao, có tầm nh́n xa, chẳng phải ch nh́n một đời này, mà càng phải thấy đời sau và những đời sau đó nữa, biết nhân quả, biết họa phước sao mà có!

       Chê người, khen ḿnh một bệnh”, chuyện này cũng thường nẩy sanh. Quan trọng nhất là bản thân chúng ta có phạm hay không? Có hủy báng k khác hay không? tán thán chính ḿnh hay không? Chính ḿnh có một chút tốt lành, c s k khác chẳng biết đến. Trong Phật pháp, điều này được gọi là tự tán, hủy tha” (khen ḿnh, chê người), ư nghĩa hoàn toàn tương đồng. Trong Bồ Tát Giới, “tự tán hủy tha” là một trọng giới, đức Phật nghiêm khắc ngăn cấm, chẳng chấp thuận. Đối với người khác phải tán thán, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta lễ kính chư Phật, tán thán Như Lai”. Người khác có ưu điểm, chúng ta phải tán thán. Người khác khuyết điểm, có ch bất thiện, quyết định đừng nên phê b́nh. Hễ có trách nhiệm khuyên răn bạn thân th́ phải làm khi nào? Khi chẳng có k th ba trông thấy hoặc nghe thấy, bèn khuyên nhủ, ch dạy, khuyên lơn kẻ ấy sửa đổi, ăn năn hối lỗi. Lại c̣n khuyên dạy tối đa là hai lượt, ch nên ba lượt; khuyên hai lần không nghe th́ đừng nói nữa. Nói nữa s biến thành oán cừu, điều này rất quan trọng. H [kẻ ấy] hoan h nghe người khác khuyến cáo, sau khi nghe, có th thật sự sửa đổi, quư v hăy nên khéo chiếu c ngườiy, phải thường xuyên khuyên răn k ấy, ngơ hầu k ấy có th tr thành thánh, thành hiền. Kẻ b người khác phê b́nh, trong tâm bực bội th́ ch nên nói nữa, chẳng cần kết oán cừu với k ấy, đó là đạo nghĩa bạn bè. Giữa các bạn học [là như thế], mà giữa thầy tṛ cũng là như thế. Thu trước, tôi theo thầy Lư học Giáo, các bạn học của chúng tôi trong lớp kinh giáo đều là học tập kinh giáo, hơn hai mươi người học giảng kinh. Có mấy bạn học dường như t trước đến nay thầy chưa h tươi cười với họ, có đánh, có chửi. Học tṛ giỏi có th tiếp nhận đánh chửi mà vẫn cảm t thầy, cảm ơn thầy, thầy thật sự dạy bảo. C̣n có hai ba v đồng học, thầy đối xử với h rất tốt, chẳng bao gi nói này nói nọ, do nguyên nhân ǵ? Lần đầu tiên thầy phê b́nh họ, v mặt h rất khó coi, rất bực bội, t đó v sau, thầy chẳng p b́nh họ nữa, xem h như học tṛ d thính, hoan nghênh quư vị đến nghe, tuyệt đối chẳng phê b́nh quư vị. Thuở ấy, chúng tôi tuổi trẻ, trong tâm nghi hoặc thầy đối đăi đồng học chúng tôi chẳng công bằng, một thời gian lâu sau, thầy cũng nh́n ra. Có một hôm, thầy gọi tôi vào pḥng, nói rơ v́ sao có những người thầy giáo huấn nghiêm ngặt, khắt khe: “Những người ấy có th tiếp nhận, nếu tôi không dạy h như vậy, tức là có lỗi với họ. sao có mấy đồng học chẳng th nói, chưa bao gi nói động tới họ? H chẳng th tiếp nhận, cần ǵ phải kết oán cừu?” Tôi mới hiểu rơ. Trong khi giáo học, thầy cũng dạy tôi cách làm người như thế nào. V́ l đó, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta xử sự, đăi người, tiếp vật đều phải có chừng mực.

      Điều tiếp theo, tự tiện thay đổi là một bệnh”, vấn đề này cũng hết sức nghiêm trọng! C thánh tiên hiền đă lập ra quy củ, chính chúng ta sửa đổi, có phải gánh trách nhiệm nhân qu hay không? Khẳng định phải chịu. C thánh tiên hiền đă lập ra những phép tắc ấy, thường được các tôn giáo hiện thời gọi là “chân lư, không th thay đổi! Tám câu đầu trong Tam T Kinh chính là nguyên lư và nguyên tắc giáo học của t tiên và c thánh tiên hiền đối với người sau trong suốt mấy ngàn năm qua, có th sửa đổi hay không? H sửa đổi, toàn b các vấn đề s xuất hiện. T tiện thay đổi là một căn bệnh nặng của người hiện thời. Nguyên tắc ch đạo giáo học cao nhất của c nhân là quư chuyên” (chú trọng chuyên nhất), người hiện tại chẳng làm theo nguyên tắc ấy, học quá nhiều, học quá tạp. Đặc biệt những v làm ph mẫu tuổi trẻ, chẳng có kinh nghiệm dạy d tr thơ, tâm mong con tr thành k tài năng quá mạnh, hy vọng con ḿnh có th vượt trỗi k khác, th ǵ cũng biết, th ǵ cũng học, đứa bé ấy rất đáng thương, chẳng thể chịu đựng nổi, học hành rất đau khổ. Hiện thời, chúng ta thường nghe nói học tṛ Tiểu Học t sát, trong quá khứ, chưa h có chuyện này. V́ sao chúng t sát? Chúng quá đáng thương, quá khổ! Đó là ǵ? Lỗi lầm của cha mẹ, không biết dạy con! Thời cổ, tr nh đi học ch học một môn, quư dĩ chuyên” mà! Mấy ngàn năm qua đều là như vậy. Học một môn này chưa xong, chẳng th học môn th hai. Nay th́ có th học đồng thời bảy, tám môn, thế th́ sao? Chẳng được rồi! C nhân Trung Quốc học ǵ cũng là học một môn, học chu đáo một môn xong rồi mới có th học môn th hai.

      Chúng tôi theo học kinh giáo trong lớp dạy kinh giáo của thầy Lư, thầy quy định cũng là một môn, bảo rơ ràng cùng quư vị: “Các v chắc chắn không th học cùng lúc hai môn!” Nếu nói rất khó nghe th́ ư thầy là: “Quư v chắc chắn chẳng có sức học hai môn”. Thầy nói hết sức khẳng định. Một môn học tốt đẹp rồi, tốt đẹp đến mức độ nào? Phải được thầy công nhận, thầy nói “có thể” th́ mới được phép học môn th hai; nhưng tiêu chuẩn của thầy cũng trọn chẳng nghiêm ngặt lắm, mà cũng rất khoan dung. Tiêu chuẩn của thầy là thí d như học một bộ kinh, quư vị có thể lên bục giảng, thầy ngồi dưới nghe, gật đầu, được lắm, coi như thông qua bộ kinh ấy. Nhưng lúc tôi theo thầy, tôi đặt tiêu chuẩn cho chính ḿnh nghiêm khắc hơn một chút. Tôi cảm thấy giảng một lần không đủ, tối thiểu phải giảng mười lần, tôi mới học b kinh th hai. Mười lần th́ đến giảng đâu? Đến nhà đồng học hoặc đồng tu. Thứ Hai đến nhà Trương cư sĩ, th Ba đến nhà Vương cư sĩ, th Tư đến nhà Lư cư sĩ. Đều là giảng một thứ, tức là với mỗi bài học, mỗi tuần tôi t́m tối thiểu ba nhà hay bốn nhà [để tập giảng], cách giảng của tôi là như vậy. Thính chúng một, hai, ba người đều được, học giảng mà! S lượt luyện giảng càng nhiều, càng thuần thục, quen tay hay việc! Không quen th́ làm sao được? Do vậy tôi nói “một lần không được”, tôi đặt tiêu chuẩn cho chính ḿnh, tôi nói “mười lượt”. Kinh Vô Lượng Th tôi đă giảng mười lần, lần này đặc biệt chọn giảng chú giải của lăo sĩ Hoàng Niệm Tổ, chúng ta cùng nhau học tập, cùng nhau chia sẻ.

      Do vậy, quư v tuân th quy củ của cổ thánh tiên hiền định, nhất định lợi. Nếu q vị sửa đổi, chắc chắn s nẩy sanh phiền phức. Quư vị thấy tại Trung Quốc mấy ngàn năm qua, chẳng ai dám sửa đổi. T tiên định ra điều ǵ? Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, chẳng nhiều lắm. Giáo dục thời c nhằm dạy ǵ? Dạy bốn th ấy. Bốn th ấy nhằm dạy tiêu chuẩn giáo dục làm người. Đều có th làm được th́ quư vị mới giống như con người. Ngũ Luânnói v quan h giữa con người với nhau, điều này rất trọng yếu, chớ nên không biết! Cha con có t́nh thân, vua tôi có nghĩa, v chồng sai khác ([có nghĩa là] nhiệm v khác nhau), lớn nh có tôn ty trật tự, bạn bè gi ch tín. Cốt lơi của nền giáo dục Trung Quốc cha con có t́nh thân, tức là thân ái. V́ thế, giáo dục Trung Quốc nhằm giáo dục t́nh thân ái. Những th sau đó như Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức đều là t́nh thân ái m rộng, t ḷng thân ái khuếch trương, cốt lơi là t́nh thân ái. Ngũ Thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân là yêu thương con người. Nghĩa là tuân theo lư, tức hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp. Lễ là chừng mực, x sự, đăi người, tiếp vật đều phải có chừng mực, chớ nên quá lố, mà cũng ch nên quá băi buôi, nhất định phải là chừng mực. Cư x giữa con người với nhau ch nên lễ. Trí là lư trí, không thể xử sự theo cảmnh! Trong cuộc sống, công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật phải dùng trí, đừng dùng cảm t́nh. Phải nói đến tín nhiệm. Con người thiếu ch tín, s chẳng th tồn tại trong xă hội. Ch Tín hết sức quan trọng. T Duy là lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Bát Đức là hiếu, đễ, trung, tín, nhân, ái, ḥa, b́nh. Cương lănh là như vậy, do t tiên đặt ra, chẳng th thay đổi. H biến đổi, toàn th trật t xă hội rối loạn, nhà chẳng ra nhà, nước chẳng ra nước. Quy c của t tiên được thi hành tại Trung Quốc suốt mấy ngàn năm. Thái Thượng Lăo Quân nói tới một trăm chứng bệnh, chúng tôi ch nêu mấy điều này là đủ rồi!

      Lại xem Ngài nói v thuốc chữa, đối với điều đầu tiên, Ngài nói: Thể nhược, tánh nhu là một loại thuốc”, chẳng phải là Thái Thượng Lăo Quân bảo thân th chúng ta phải suy nhược, chẳng phải là ư nghĩa đó! “Nhượcđối diện với cái ǵ mạnh mẽ, nếu chúng ta biểu hiện rất kiên cường sẽ không tốt, đấy cũng là như hiện thời chúng ta nóiḥa hài”, tánh t́nh phải mềm mỏng. Nói thật ra, trong Phật pháp, quư vị đọc phần T Đức được giảng trong Hoàn Nguyên Quán, điều th ba là “nhu ḥa, chất trực”. “Thể nhược” nghĩa là chất trực, đăi người, tiếp vật phải mềm mỏng. Chất trực là chân thành, phải có thành ư đối với người khác. Ch nên dùng thái độ cường bạo để đối x với người khác, phải dùng thái độ mềm mỏng khiến cho người khác hoan hỷ. Nói theo cách bây giờ, trong tư thế xử sự, đăi người, tiếp vật, chúng ta phải biết h ḿnh một chút, “nhược” có ư nghĩa như vậy. Ch nên dùng ngôn ng cứng cỏi, đụng chạm, ra lệnh, khiến người ta nghe rất ngứa tai! Dẫu là thuộc h của chính ḿnh, nếu quư vị th khiêm hư, người khác sẽ thực hiện công việc tốt đẹp hơn. K nhất là lớn tiếng la lối, chẳng tốt! Người khác ngoài mặt phục tùng quư vị, trong tâm không phục. Nếu quư v có th khiến cho trong tâm người ta cảm phục quư vị, đó gọi là “tâm phục, khẩu phục”, s thành công!

       Hành vi phải khoan dung, tâm ḥa hoăn là một loại thuốc”. Nói thật ra, loại thuốc này đối với chúng ta s hữu ích trong việc tu thân. Tu thân, dưỡng tánh, thân tâm khỏe mạnh, gia đ́nh ḥa thuận, sự nghiệp thuận lợi. Loại thuốc này đều có th giúp quư vị, hội ḥa hài, thế giới ḥa b́nh, nó rất tốt. “Hành” phải khoan, tức là khoan hậu, “hành” là hành vi, phải khoan hồng, độ lượng, tâm phải ḥa hài, đó gọi làḥa b́nh”. B́nh đẳng th́ mới ḥa, b́nhnhân, ḥa quả. Đối đăi với k khác chẳng b́nh đẳng, chắc chắn chẳng th đạt được ḥa.

      Động tĩnh hữu lễ là một loại thuốc”. L hết sức trọng yếu. Có lễ, người khác tôn kính, kính mến quư vị, thật sự đạt được lợi ích, người được lợi là chính ḿnh.

      Sống theo nề nếp là một loại thuốc”: Cuộc sống có quy luật là một loại thuốc, đó là đường lối để sống lâu, khỏe mạnh.

      Gần đức, xa rời sắc là một loại thuốc”, thân cận người đức hạnh, tránh xa sắc. Nam đối với nữ phải xa cách một chút, n đối với nam cũng phải xa cách một chút, đó là Thuốc.

       Trừ kh dục tâm là một loại thuốc”. Dục là dục vọng. Mọi người đều có dục vọng. Nếu chẳngdục vọng, quư vị chẳng sanh trong nhân gian. Trong Phật pháp, gọi cơi nhân gian là Dục Giới; do vậy, k chẳng có dục s chẳng đến Dục Giới, h tới Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Đối với dục th́ nên như thế nào? Càng nhạt bớt càng tốt. Dục vọng trọng yếu của con người cuộc sống. Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta mà biểu diễn, ngày ăn một bữa, tối ngh dưới cội cây, đúng là giảm dục vọng đến mức độ thấp nhất, vâng gi bất động, suốt đời chẳng thay đổi. Giảng kinh, giáo học bốn mươi chín năm, bảy mươi chín tuổi viên tịch trong rừng, chẳng phải là trong nhà, quây quần, bầu bạn với thiên nhiên.

       Lúc phân chia bèn nhường nhịn ḥng tăng trưởng đạo nghĩa là một loại thuốc, hay lắm! Đặc biệt là đối với tài vật, khi phân chia tài vật, hăy nên lùi bước, nhượng bộ, chẳng cần phải tranh giành. Hiện thời, chúng ta thấy rất nhiều người già c qua đời, con cái đông đảo, anh em, ch em chia chác gia tài thường lôi nhau ra ṭa, đó là bất nghĩa, lẽ nào chẳng có lỗi đối với người già? Người già nếu trông thấy t́nh cảnh ấy, l đâu chẳng đau ḷng? C nhân từ nhỏ đă hưởng s giáo dục tốt đẹp, giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả, khi chia gia tài ai nấy đều khiêm nhượng, đều mong người khác được nhiều hơn một chút, chính ḿnh được ít hơn một chút. Tuy riêng, vẫn là thân t́nh, vĩnh viễn đoàn kết với nhau, tốt đẹp thay! Do vậy, c nhân khi phân chia tài sản chẳng tham tài, cốt sao cho anh ch em ruột thịt của ḿnh đều được chăm sóc tốt đẹp. Ai có năng lực mạnh m th́ tài sản chia phần ít một chút, h có năng lực làm việc mà! Kẻ năng lực kém cỏi th́ mong chia cho h nhiều hơn một chút. Họđạo nghĩa,tâm yêu thương, chiếu c lẫn nhau, đó là đúng.

       Chẳng lấy thứ ǵ phi phận là một loại thuốc”, “phi phận” là ǵ? Th ǵ chẳng nên lấy th́ quyết định ch nên lấy. Tiền tài phi phận cũng gọi “tiền tài bất nghĩa”. Nếu quư v tham lam những th ấy th́ s gặp tai nạn, trước mắt chẳng thấy tai nạn, nhưng đă gieo gốc họa. Nói theo luật nhân quả, hiện thời do quư vị phước, nên tuy đă gieo những nhân ác ấy, nhưng chẳng có qu báo trong hiện tiền. Đợi đến khi quư vị hưởng hết phước, tai nạn liền hiện tiền. Nói thật ra, ai nấy đều có oán thân trái chủ, oán thân trái chủ do đâu mà có? Kết t trong đời q khứ, nay chúng ta chẳng nhớ, h chẳng b đi, c theo sau ta. Đối với những tạo tác trong một đời, Phật pháp đă cảnh cáo rất nhiều, rất nghiêm trọng! Quư v ăn người khác tám lượng, trong tương lai phải đền tr nửa cân. Chúng ta ăn thịt, chẳng th không gánh trách nhiệm nhân quả, nhất là chính ḿnh giết chóc. Động vật b giết cũng là một cái mạng, nó có cam tâm t́nh nguyện cúng dường thịt nó cho quư v hay chăng? Chẳng có chuyện cam tâm t́nh nguyện! Nếu chẳng cam tâm, chẳng t́nh nguyện, có th nào chẳng có tâm báo thù ư? Chúng tôi đă từng thấy, thuở bé, tôi sống nông thôn. Nhà nông nuôi dưỡng gia súc, nuôi gà, nuôi lợn là con vật thông thường nhất. Quư vị thấy tết đến giết gà, gà có t́nh nguyện hay không? Nó chạy lung tung, chạy trối chết! Khi giết lợn, quư vị nói xem có phải là tiếng lợn rú rất thảm thiết, rất đáng thương! Đó là ǵ? Chẳng hiểu nhân qu báo ứng, làm những chuyện xuẩn ngốc. Đức Phật biết chúng sanh chẳng b ăn thịt được; v́ thế, khuyên k khác hăy ăn ba th tịnh nhục, đó là chuyện bất đắc dĩ! Tam tịnh nhục nghĩa là ǵ? Chẳng thấy giết, tức là khi con lợn ấy b giết, ta chẳng trông thấy, cũng chẳng nghe tiếng nó kêu, th ba là chẳng phải ta mà giết. Đó là tam tịnh nhục. Chúng ta ra ch mua về, đều thuộc loại tam tịnh nhục, trọn chẳng [do chính ta, hay ta sai người khác] giết mổ. Thời cổ, người đọc sách Trung Quốc thường nói: “Văn kỳ thanh, bất nhẫn thực kỳ nhục, tức là khi nghe nó b giết, nghe âm thanh kêu gào thê thảm của nó, n ḷng nào làm thịt nó? V́ thế, “chẳng lấy thứ ǵ quá phận là một món thuốc”. Đó là điều nên làm, đối với tài vật trái phận đều ch nên tùy tiện chiếm hữu, cho đến khống chế, đều ch nên!

      Câu tiếp theo là tuy ghét nhưng vẫn thương yêu là một loại thuốc”. Tuy ghét k ấy, chán ngán họ, nhưng vẫn yêu thương k ấy, đó là tâm t bi, tâm thương xót. Một người chẳng được người khác ưa thích th́ trong ấy có nhiều nhân tố, quan trọng nhất là nghiệp báo. Nghiệp báo đă tạo rồi th́ người hiểu rơ, người có tu dưỡng phải biết tha thứ. Phàm những k trong xă hội chẳng được người khác giúp đỡ là v́ không khiến cho người khác ưa thích. Do vậy, người thật s nhân từ, trông thấy không đành ḷng, vẫn thương xót họ, giúp đỡ họ, chăm sóc họ, đó là đức hạnh. Người b́nh phàm chúng ta thường nói là tích đức rất trọng yếu, phải biết học tập. Thiên sách ấy (Thái Thượng Lăo Quân Thuyết Bách Bệnh) th nói là b sung cho Cảm Ứng Thiên, khiến cho Cảm Ứng Thiên càng viên măn, chúng ta tu học s được lợi ích chân thật. Trong thiên văn t ấy, đối với câu “dục trị chư bệnh, đương bị chủng chủng chủng dược” (muốn tr các bệnh, hăy nên chuẩn b đầy đủ các món thuốc) [trong sách Hội S đă được c Hoàng Niệm T trích dẫn đây], chúng tôi đọc thiên văn chương này của Thái Thượng Lăo Quân bèn cảm xúc sâu đậm. Đối với những lời dạy của Lăo Quân, chúng ta có th dùng bài văn ấy để phản tỉnh, chúng ta có bệnh hay không? Lại xem tới một trăm th bệnh do Ngài đă nói, chúng ta có hay không? Lại xem một trăm loại thuốc, chúng ta có những thuốc ấy hay không? Một trăm loại ấy đều giúp cho thân tâm chúng ta khỏe mạnh, giúp chúng ta gia đ́nh hạnh phúc, công việc m măn, lợi ích quá nhiều, hăy nên học tập! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới ch này.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 62 hết

 



[1] “Tám vạn bốn ngàn tế hạnh” chỉ là cách nói tượng trưng nhằm tiêu biểu vô lượng oai nghi, tế hạnh. Nếu hiểu theo Pháp Tướng (như cách giải thích trong bộ Tam Tạng Pháp Số) th́ đối với 250 giới của hàng tỳ-kheo, mỗi giới đều bao gồm bốn oai nghi là đi, đứng, nằm, ngồi nên 250x4=1.000. Phối hợp một ngàn tế hạnh ấy với Tam Tụ Tịnh Giới thành 1.000x3=3.000. Lại phối hợp ba ngàn hạnh ấy với bảy điều giết, trộm, dâm, dối, lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngữ, ỷ ngữ thành 3.000x7=21.000, lại phối hợp với tham, sân, si, đẳng phần thành 21.000x4=84.000 tế hạnh.

[2] Bí Tạng Kư là tác phẩm giảng về giáo nghĩa Mật Giáo do sơ tổ Đông Mật Nhật Bản là Hoằng Pháp Không Hải đại sư biên soạn, ghi lại những lời dạy khẩu truyền của tổ Huệ Quả thuộc Đông Mật Trung Hoa giảng về các pháp tắc thực hiện nghi lễ Mật Tông cũng như những giáo nghĩa bao hàm trong ấy. Hiện thời, sách này có hai phiên bản, tức là Lược Bổn một quyển và Quảng Bổn gồm hai quyển.