Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 62
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
123
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm bốn mươi ba, ḍng thứ sáu từ dưới đếm lên.
“Hoa
Nghiêm kinh hựu vân” (kinh Hoa Nghiêm lại nói), xem từ
chỗ này, “nhất thiết
tự tại nan tư nghị, Hoa Nghiêm tam-muội thế
lực cố” (Hết thảy
tự tại khó nghĩ bàn là do thế lực của Hoa
Nghiêm tam-muội). “Hựu Hợp Tán viết: - Pháp giới
duy tâm, danh Phật Hoa Nghiêm. Dĩ nhân hạnh hoa, nghiêm quả đức
tướng, linh hiển trước cố. Nhập thử
tam-muội, hiện kiến thập phương Phật
cập Phật độ” (Sách Hợp Tán lại nói: “Pháp
giới duy tâm gọi là Phật Hoa Nghiêm. Dùng hoa nhân hạnh
trang nghiêm khiến cho tướng trạng của quả
đức được hiển hiện. Nhập
tam-muội này sẽ thấy mười phương
Phật và các cơi Phật trong hiện tại”). Vẫn
là dùng kinh luận để giải thích Hoa Nghiêm
tam-muội. Lăo cư sĩ
Hoàng Niệm Tổ chú giải
bộ đại kinh này, trích dẫn
một trăm chín mươi ba bộ kinh luận, nên chúng
ta đọc bản chú giải của cụ, cũng giống như xem hơn một trăm bộ kinh luận. Những văn tự có liên quan đến kinh Vô Lượng
Thọ ở đây đều là tinh yếu, cốt lơi, ở chỗ này chúng ta có thể thấy được!
Ở đây, cụ trích dẫn kinh Hoa Nghiêm để nói, hai câu sau đây là kinh văn: “Nhất
thiết tự tại
nan tư nghị, Hoa Nghiêm tam-muội thế lực cố”. Trong phần trước, chúng ta đă học Hoa Nghiêm tam-muội dùng Nhất Chân pháp giới làm duyên khởi vô tận, đó là lư luận và chỗ quy thú của nó. Thông đạt, hiểu rơ, nương theo đó để thực hiện, nương theo lư luận, phương hướng, và mục tiêu ấy để xử sự, chúng ta thường nói là “tu hành”. Đó là tam-muội, [tam-muội ấy] được gọi là Hoa Nghiêm tam-muội. Do đó, đắc Hoa Nghiêm tam-muội th́ hết
thảy tự tại, v́ sao? Thể của Hoa Nghiêm tam-muội là Nhất Chân pháp giới, là vô tận duyên khởi, nói theo cách hiện thời là toàn thể vũ trụ. Bất luận tánh, tướng, lư, sự, nhân, quả, không ǵ chẳng thông
đạt, chẳng có ǵ
không hiểu rơ, nên người
ấy mới đắc tự tại. V́ vậy, chúng ta có thể biết: Chẳng tự tại là v́ đâu? Do mê
mất tự tánh.
Lục đạo phàm phu chúng ta, cho đến các vị tiểu thánh trong tứ thánh pháp giới, đều chưa khai ngộ. Hoa Nghiêm tam-muội là cảnh giới đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Chưa khai ngộ là phàm phu, ở trong lục đạo; trong pháp Đại Thừa, những người
ấy được gọi là “nội phàm”, do c̣n ở trong lục đạo. Tứ thánh pháp
giới được
gọi là “ngoại phàm”, ở ngoài lục
đạo. V́ sao gọi họ là phàm phu? Chưa kiến tánh, vẫn dùng vọng tâm y như cũ. Vọng tâm là A Lại Da, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bất quá, họ sử dụng [vọng tâm] thù thắng hơn chúng ta. Chúng ta mê mà bất giác, lại không tin lời Phật, Bồ
Tát, hoàn toàn cậy vào phiền năo
tập khí của chính ḿnh để xử sự; trên
thực tế, xử sự kiểu đó bèn tạo nên oan nghiệt. Tứ thánh pháp
giới tuy dùng vọng tâm, nhưng họ tin Phật. Tôi dùng chữ này, các đồng
học phải lưu ư, tức là chúng ta không tin
Phật, họ tin Phật. V́ sao? Họ nghe theo giáo huấn của đức Phật, thật sự hành. C̣n chúng ta hằng ngày nghe Phật dạy, nghe cũng đă nhàm tai, chẳng thật sự hành. Dẫu có hành th́ cũng bớt xén rất lớn! Ví dụ như điều cơ bản nhất là Thập
Thiện Nghiệp Đạo, đây là giáo huấn cơ sở của đức Phật, học Phật là học từ chỗ nào? Học bắt đầu từ chỗ này, chúng ta có làm được hay không? Đức Phật dạy chúng ta đừng sát sanh, chúng ta có làm được hay không? [Quư vị khoe] “ta không sát sanh”, nhưng muỗi đến chích quư vị, chẳng phải là quư vị đập nó chết tươi ư? Nếu quư vị đánh chết nó th́ chẳng
phải là đă sát sanh rồi hay sao? Lại hỏi chúng ta có ăn
thịt hay không? Ăn
thịt cũng là sát sanh. Chúng ta có ư niệm tổn hại kẻ khác hay không? Có ư niệm tổn hại
người khác chính là ư niệm sát sanh, tức là quư vị chẳng đoạn dứt sát tâm, c̣n có ư niệm làm tổn hoại
người khác. Đối với trộm cắp, chúng ta không trộm cắp, nhưng có ư niệm chiếm tiện nghi hay không? Quốc dân đóng thuế cho quốc gia là nghĩa
vụ, là chuyện đáng nên làm, chúng ta có hy
vọng phải nộp thuế ít hơn một chút, t́m văn bản pháp luật xem có chỗ nào để có thể trốn thuế hay không để chúng ta đóng
thuế ít hơn một chút, tâm niệm ấy là tâm trộm cắp. Tuy chẳng trộm cắp, nhưng quư vị có tâm trộm cắp, có ư niệm trộm cắp. V́ thế, mỗi điều
đều rất vi
tế, chúng ta dường
như không làm, nhưng suy nghĩ kỹ, tất cả đều phạm, đó là ǵ? Đó là lục đạo phàm phu.
Những vị trong tứ thánh pháp giới thật sự làm
được. Không chỉ làm
được, mà c̣n làm vô cùng vi tế. Thánh nhân Tiểu Thừa, chúng ta thấy A La Hán và Bích Chi Phật, hai loại trước trong tứ thánh pháp giới là Tiểu Thừa, hai loại sau là Đại
Thừa, tức Bồ Tát và Phật, Tiểu Thừa
có thể triển khai Thập
Thiện Nghiệp Đạo thành ba ngàn điều, chẳng phải là mười điều. Mười điều triển khai thành ba ngàn điều,
tức ba ngàn oai nghi. Bồ Tát pháp
giới và Phật pháp
giới càng thù thắng hơn, các Ngài triển khai thành tám vạn bốn ngàn tế hạnh[1]. Đó là trong mười pháp giới, chưa thoát khỏi mười pháp
giới, là ngoại phàm, nhưng
các Ngài làm
được. Tứ thánh pháp giới thật sự là đệ tử của đức
Phật. Do vậy, có thể biết: Trong Nhất Chân pháp giới, ở đây nói là “Nhất Chân pháp giới”, các vị Bồ Tát trong Nhất Chân pháp giới đều đắc Hoa Nghiêm tam-muội. Thập Thiện Nghiệp Đạo được triển khai không phải là tám vạn bốn ngàn, mà là vô lượng, vô biên, vô số, vô tận,
đạt tới viên măn rốt ráo. V́ thế, “nhất thiết tự tại nan tư nghị” (hết thảy tự tại khó nghĩ bàn), chúng ta chẳng có cách
nào tưởng tượng. Đó là ǵ? “Hoa Nghiêm tam-muội thế
lực cố” (do thế lực của Hoa Nghiêm tam-muội). Các Ngài chứng
đắc Hoa Nghiêm tam-muội, nên mới có sự thù thắng như vậy. Tự tại là giải thoát, trong Phật quả nói đến ba đức là Bát Nhă, Pháp Thân, Giải Thoát, [các Ngài] đều chứng đắc ba thứ ấy viên măn.
Trong sách Hợp Tán có nói khá cặn kẽ: “Pháp giới duy tâm, danh Phật Hoa Nghiêm” (pháp giới duy tâm gọi là Phật Hoa Nghiêm). Pháp giới là hết
thảy các pháp, hết thảy các pháp do đâu mà có? Kinh Hoa Nghiêm đă dạy chúng ta: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở
biến”. Tánh - Tướng nói theo cách hiện thời th́ Tánh là hiện
tượng tinh thần, Tướng là hiện
tượng vật chất. Trong kinh Phật, thường dùng Ngũ Uẩn để h́nh dung và thuyết minh. Ngũ Uẩn gồm năm điều, tức năm pháp. Thứ nhất là Sắc, Sắc là nói tới vật
chất. Bất luận trong t́nh huống nào, dù là chất rắn, chất lỏng, hay chất khí, nói chung, nó là vật chất,
đều là Tướng
Phần của A Lại Da. Hiện tượng tinh thần là Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, nó cảm thụ, nó có cảm nhận. Cũng có thể nói là nó có các thứ cảm nhận khổ, lạc, ưu, hỷ. Vật chất và tinh thần vĩnh viễn chẳng thể tách rời, chúng kết hợp cùng một chỗ, nên hiện tượng vật chất nào cũng đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Quư vị thấy tiến sĩ
Giang Bổn Thắng của Nhật Bản làm thí nghiệm với nước, nước là khoáng vật, thật sự thí nghiệm thấy nước có thể nh́n, nghe, và hiểu ư nghĩ của con người. Chúng ta đối xử tốt đẹp với nó, nó có thể cảm nhận, nó rất vui sướng, rất hoan hỷ. Chúng ta đối xử với nó không tốt, nó rất khổ năo, nó có thể hiện ra h́nh tướng cho chúng ta thấy. Chúng ta xử tốt với nó, nói: “Chúng tôi rất ưa thích ngươi, rất mến ngươi”, nó phản ứng vô cùng đẹp đẽ. Chúng ta nói “tao ghét mày, tao chẳng ưa mày”, nó phản ứng rất xấu xí. Điều này cho thấy nó có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Nói theo kiểu của người hiện thời, toàn thể vũ trụ là
một thể hữu cơ, sống động, chẳng chết cứng! Trong bất cứ hiện tượng vật chất nào, cũng đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Pháp giới duy tâm, đó là “Phật Hoa Nghiêm”.
“Dĩ nhân hạnh hoa” (do coi hạnh trong lúc tu nhân là hoa), Hoa tượng trưng cho cái nhân, Nghiêm biểu
thị cái quả. Đây là dùng thực vật để tỷ dụ, quư vị thấy thực vật nở hoa trước, kết quả
sau. Trong sự cúng dường của chúng ta, tức là sự cúng dường trong Phật pháp, hương và hoa thường được dùng nhất. Kẻ b́nh phàm chỉ biết thắp hương, dùng
hoa tươi cúng Phật; thật ra, phải hiểu ư nghĩa của nó. Chẳng hiểu ư nghĩa của nó, sẽ là chỉ có h́nh thức, chẳng có thực chất. Thực chất
quan trọng hơn h́nh thức, chúng ta phải biết điều này! Phật pháp, trọng thực chất, chẳng trọng h́nh
thức. Do vậy, cá nhân chúng ta tu hành, hăy nên trọng thực chất, đừng trọng h́nh
thức, nhưng ở
chung với đại chúng, h́nh thức
rất quan trọng, v́ sao? Biểu thị pháp. Chúng ta cùng đại chúng cộng tu trong Phật đường, trước h́nh tượng Phật, Bồ Tát, phải cúng hương, hoa, chứ riêng ḿnh tu hành th́ chẳng cần
thiết. Một nén hương là đủ rồi, hương, đèn, nước, một chén
nước, khi bản thân chúng ta tu học [chỉ cần như vậy] là được
rồi. Hương tượng trưng cho Tín, tín hương,
đại biểu Giới, Định. Quư vị thấy trong bài Hương Tán có câu “Giới Định chân hương”,
biểu thị điều này. Do vậy có thể biết: Hương là h́nh tướng, thực chất là ǵ? Thực chất là Giới, Định. Nếu chúng ta chẳng có Giới, chẳng có Định, chỉ là một nén hương suông, tức là chỉ có h́nh thức, chẳng có thực chất. Hương nhắc nhở chính ḿnh phải tu Giới - Định, và cũng
nhắc nhở người khác, nó có ư nghĩa ấy. Cúng hoa, hoa biểu thị sự tu nhân, nhân ǵ vậy? Lục Độ là nhân, bố thí, tŕ
giới. Trong tŕ giới, Thập Thiện là nhân. Do vậy, chúng ta chú trọng tu nhân. Chẳng cúng hoa không sao cả, chúng ta thật sự tu hành là tu nhân, tu Thập Thiện, tu Lục Độ, đó là ư nghĩa của việc cúng hoa. Không cúng hoa, nhưng chúng ta đă đạt được ư nghĩa ấy, tức là có thực chất, chẳng có h́nh thức; điều này rất trọng yếu, h́nh thức chẳng trọng yếu. Chúng ta cúng trái cây, trái cây biểu thị phương hướng và mục tiêu tu hành, trái cây tượng trưng điều ǵ? Tượng trưng Bồ
Đề, tượng trưng Niết Bàn. Chúng ta tu Tịnh
Độ, quả ấy biểu thị Tây Phương Cực Lạc thế giới, niệm niệm chẳng quên, mang ư nghĩa này. Do vậy, hương và hoa là nhân, hoa nhân hạnh cảm quả
đức, “trang nghiêm” là quả đức. Đối với tự
thân, quả đức là “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác” như trong kinh đă nói, đó là quả, nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, trang nghiêm quả đức. “Linh hiển
trước cố” (khiến cho hiển hiện), cổ nhân Trung Quốc nói: “Tồn ư nội, nhi
h́nh ư ngoại” (chất chứa bên trong, sẽ thể hiện ra bên ngoài). Trong tâm quư vị có thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác, liền hiện ra ngoài. Trong tâm người ta hoan hỷ, quư vị sẽ thấy vẻ mặt tươi cười. Người mang nỗi âu lo, quư vị thấy sắc mặt họ rất khó coi, đó là biểu hiện ra ngoài. Do vậy, nếu tâm địa quư vị thanh tịnh, tướng thanh tịnh
liền hiện tiền; b́nh đẳng th́ tướng b́nh đẳng cũng sẽ hiện ra, đó là “quả
đức hiển trước”
(quả đức hiển lộ).
“Nhập thử tam-muội” (nhập tam-muội này), “nhập” là khế nhập, quư vị chứng đắc, tu
thành. Quả là “hiện kiến thập
phương Phật
cập Phật
độ” (thấy thập phương
Phật và cơi Phật trong hiện tại). “Hiện” (現) là hiện tiền (現前). Trong hiện tiền, quư
vị thấy
mười phương chư Phật, thấy Phật. Quư vị cũng thấy các cơi nước của mười
phương chư Phật. Mười phương Phật là thầy của chúng ta. Mười phương cơi Phật là đạo tràng tu hành của chúng ta.
Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện, lăo nhân gia suốt đời chẳng kiến lập đạo tràng, v́ sao chẳng dựng đạo tràng? Nơi nơi chốn chốn đều là các cơi nước của mười phương chư Phật, chính ḿnh cần ǵ phải tự xây đạo tràng? Chính ḿnh dựng đạo tràng,
tam-muội rất khó hiện
tiền, v́ sao? Quư vị có phân biệt, có chấp trước, tâm quư vị không thanh tịnh, tâm quư vị
bất b́nh đẳng, chẳng buông tập khí phiền năo xuống được. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta một chiêu này vô cùng cao minh, bỏ sạch hết thảy, chẳng mảy may lưu luyến thế gian này. Tự hành, hóa tha, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, nơi nào có duyên bèn đến đó, kết pháp duyên
với hết thảy
chúng sanh. Nghĩa lư trong kinh văn rộng lớn, chẳng có ngằn mé, đâu đâu cũng đều có
thể thấy. Ở chỗ này, chúng tôi nói đến đây, phía sau c̣n bổ sung rất nhiều điều.
“Hựu Gia
Tường Sớ viết: Thử tam-muội giai sức Pháp Thân, cố vân
Hoa Nghiêm” (Gia Tường Sớ lại
giảng: “Tam-muội này đều dùng
để trang hoàng Pháp Thân, nên gọi là Hoa Nghiêm”). Trong chữ Hoa Nghiêm (華嚴), Hoa là hoa lệ (華麗:
rực rỡ, lộng lẫy), Nghiêm là trang nghiêm. Quư vị thấy bọn chúng ta tham dự tiệc tùng, mặc lễ phục, đeo chuỗi châu ngọc. Đó là trang nghiêm, vậy th́ Hoa Nghiêm là dùng tỷ dụ ấy. Dùng ǵ để trang nghiêm? Dùng tam-muội, dùng Hoa Nghiêm tam-muội để trang hoàng Pháp Thân, đó là Hoa Nghiêm. Chúng ta xem câu tiếp theo, câu này do cụ Niệm Tổ giảng: “Nhân thử tam-muội, trang nghiêm Pháp Thân
cố, dĩ thượng chư thuyết, giai minh Hoa Nghiêm tam-muội chi nghĩa” (Do tam-muội này trang nghiêm Pháp Thân, nên các thuyết như trên đều giảng rơ ư nghĩa
của Hoa Nghiêm tam-muội), đều là ư nghĩa của
Hoa Nghiêm tam-muội, tam-muội này có thể trang nghiêm Pháp Thân. Pháp Thân là ǵ? “Kỳ trung Hợp Tán sở vị ‘pháp giới duy tâm, danh Phật Hoa Nghiêm’; thử biểu Nhất Chân pháp
giới duy thị tự
tâm, vu thử
liễu đạt, tức Hoa Nghiêm tam-muội” (Trong ấy, thuyết “pháp
giới duy tâm gọi là Phật Hoa Nghiêm” của sách Hợp Tán
biểu thị: Nhất Chân pháp giới chỉ là tự
tâm. Thấu đạt được điều này th́
đó chính là Hoa Nghiêm tam-muội). Cách giảng này rất hay. Nhất Chân pháp giới, nói thật với quư vị, Chân là ǵ? Theo định nghĩa trong giáo pháp Đại
Thừa, hễ nói tới Chân th́ nó là tồn tại vĩnh hằng, bất sanh, bất diệt, vĩnh hằng bất biến, đó là Chân. Chúng ta hăy suy nghĩ, vạn sự
vạn vật trong vũ trụ, thứ ǵ là bất biến? Con người chúng ta, người sống trong thế giới này có sanh, lăo, bệnh, tử, biến đổi trong từng sát-na. Con người già đi, chẳng phải là mười năm sau già hơn mười năm trước, chẳng
phải vậy, mà là mỗi năm một già hơn! Nếu quư vị xét kỹ, mỗi tháng một già hơn, mỗi ngày một già hơn. Nói thật với quư vị, mỗi giây một già hơn, giây trước c̣n trẻ trung, giây sau đă già khọm. Sát-na chẳng trụ, chẳng ngưng nghỉ, luôn biến hóa, đó là giả, chẳng thật. Đức Phật dạy chúng ta đạo lư này, [hễ thứ nào] có hiện
tượng ấy (hiện tượng sanh diệt, biến hóa), quư vị
liền biết nó là giả, chẳng thật!
Chúng
ta thấy hoa cỏ, cây cối bên ngoài, hoa, cỏ, cây cối cũng là vô thường. Hoa nở, hoa tàn, Xuân sanh thành, Hạ tăng trưởng, mùa Thu lá cây úa vàng, mùa Đông trút lá. V́ thế, nó cũng là vô thường, chẳng thật, là giả.
Lại nh́n đến khoáng vật, núi, sông, đại địa cũng là vô
thường, cũng biến hóa trong từng sát-na; v́ thế, biển xanh nương dâu! Quư vị chú tâm quan sát, [sẽ
thấy] toàn thể vũ trụ đều biến hóa. Ban đêm chúng ta thấy, lúc trời quang đăng nh́n lên không trung, vô lượng, vô số tinh cầu, bằng mắt thường, chúng ta có thể
thấy ước chừng hơn sáu ngàn ngôi sao. Nếu dùng loại viễn vọng kính thông thường, ước
chừng có thể thấy khoảng mười mấy vạn. Viễn vọng kính thiên văn thấy càng nhiều hơn. Những tinh cầu ấy có thành, trụ, hoại, không. Quan sát từ viễn vọng kính của đài thiên văn, ta thường thấy có những ngôi sao bùng nổ. Sau khi bùng nổ, chẳng c̣n thấy chúng nữa, chẳng c̣n nữa, đă tiêu mất rồi. Ta cũng phát hiện những ngôi sao mới xuất hiện, ở chỗ này vốn chẳng có ngôi sao nào, đột nhiên sáng bừng, có ngôi sao mới xuất hiện. Đó là tinh cầu có sanh, có diệt. Thông thường, qua viễn vọng kính thiên văn, chẳng
phải bằng dụng cụ tinh vi, chúng ta đă thấy tinh
cầu sanh diệt. V́ thế, đức Phật nói thành, trụ, hoại, không, nói thế
giới thành, trụ, hoại, không. Thứ ǵ bất biến? Dường như trọn chẳng t́m thấy!
Trên
thân chúng ta, trên thân thể, thật
sự có thứ bất diệt như vậy, nếu đức Phật không dạy rơ, chúng ta đều bỏ sót. Trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật đă nói với vua Ba Tư Nặc, v́ vua Ba Tư Nặc hết sức
đau đớn, tuổi mỗi năm một già hơn, già rồi sẽ chết, cảm nhận nỗi khổ vô thường. Đức Phật khai thị, hỏi nhà vua: “Bệ hạ mấy tuổi bèn thấy sông Hằng và thấy nước sông Hằng lần đầu?” Sông Hằng của Ấn
Độ giống như Trường Giang
(sông Dương Tử) hoặc Hoàng Hà của Trung Quốc, là một con sông rất lớn. Vua thưa: “Lúc ba tuổi”, mẹ dẫn nhà vua đi qua sông Hằng, biết đó là nước sông Hằng. Đức Phật liền hỏi nhà vua: “Khi bệ hạ mười ba tuổi, già hơn lúc ba tuổi phải không?” “Đúng thế!” “Lúc mười ba tuổi, cái thấy của bệ hạ so với cái thấy lúc ba tuổi có biến hóa hay không?” Vua thưa: “Chẳng biến hóa. Người già đi, nhưng theo trẫm thấy, dường như chẳng có hiện tượng lăo hóa”. Sau đó, hỏi vua từng mười năm một, hai mươi ba tuổi so với mười ba tuổi, ba mươi ba tuổi so với hai mươi ba tuổi, cuối cùng hỏi đến sáu mươi hai tuổi; năm đó, nhà vua sáu mươi hai tuổi. Sáu mươi hai tuổi đă già rồi. “Tuy đă già, tánh Thấy của bệ hạ có già hay không?” Chẳng già! Nay chúng ta nói là tuổi tác đă cao, mắt đă kém rồi, mắt già, hoa mắt là ǵ? Đó là công cụ của quư vị có vấn
đề, chẳng
phải là tánh Thấy có vấn đề! Đeo cặp kính vào, lại thấy rơ ràng. Do vậy có thể biết: Cái Thấy và tánh Thấy chẳng liên quan với nhau! Đó là [vấn đề nơi] công cụ, công cụ bị lăo hóa, đeo mắt kính vào liền giống như thuở tuổi trẻ, chữ rất nhỏ vẫn có thể nh́n thấy. Đức Phật liền nói: “Thân thể của bệ hạ có lăo hóa, nhưng tánh Thấy chẳng bị lăo hóa”. Mỗi năm một già hơn, nhưng tánh Thấy chẳng bị lăo hóa. Cái chẳng già là thật, nơi mắt gọi là Thấy, tánh Thấy; nó chẳng có sanh diệt, chẳng có hiện tượng lăo hóa. Nơi tai gọi là Nghe, tánh Nghe. Căn tánh của sáu căn là thật; căn tánh của sáu căn là chân tâm, chẳng phải là vọng tâm. Nó có sự liễu biệt, nhưng chẳng phân biệt. Liễu (了) là hiểu rơ, [liễu biệt là]
thấy rất rơ ràng, nghe rất rơ ràng, chứng tỏ căn tánh của sáu căn là thật. Sau khi thấy, bèn phân biệt, chấp trước, đó là vọng tâm. Vọng tâm thuận theo chân tâm, đồng thời khởi tác dụng, nhưng vọng là vọng, chân là chân. Vọng có sanh diệt, chân chẳng có sanh diệt. Đoạn kinh văn ấy nói rất dài, vua Ba Tư Nặc nghe hiểu, hết sức hoan hỷ, biết trong cái thân sanh diệt này của chính ḿnh vẫn có một thứ bất sanh bất diệt tồn tại. Cái chẳng sanh diệt ấy là cái ta thật sự, được gọi là Pháp Thân. Pháp Thân là căn tánh của sáu căn, Pháp Thân là chân tâm, bất sanh, bất diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng đến, chẳng đi.
Do vậy, ở đây nói là “Nhất Chân pháp giới chỉ là tự
tâm”, tâm hiện mà! Các tướng được hiện bởi tâm, phải hiểu tướng là giả, và cái tâm có thể
hiện (năng hiện) ấy là thật, tướng được hiện là giả. Chân và vọng tuy ḥa hợp, nhưng chân chẳng phải là vọng, vọng chẳng phải là chân, nhất
định phải hiểu rơ điều này. Kinh Đại Thừa lại nói chân và vọng chẳng hai, có nghĩa là ǵ? “Chân và vọng chẳng hai” là nói hai thứ đều chẳng tồn tại. Chân chẳng phải là hiện tượng vật chất, mà cũng không phải là hiện tượng tinh thần, lục căn chẳng tiếp xúc được! Có tánh Thấy hay không? Có, khẳng định là có! Nếu chẳng có, làm sao nó có thể thấy được? Nó ở chỗ nào? Chẳng thấy được! Chuyện này cũng rất khó hiểu, nhưng cũng chẳng
phải là rất khó hiểu, chúng tôi dùng tỷ dụ th́ chư vị có thể hiểu được. Chúng tôi sánh ví chân tâm với điện đang được
dùng trong hiện tại, mọi người bèn dễ hiểu. Điện là một vật, mà cũng là
một thứ hiện tượng vật chất, nhưng trong các vật dụng khác nhau, nó khởi tác dụng khác nhau. Nơi TV, nó có thể hiện ra h́nh ảnh, giống như ở mắt th́ chúng ta có thể thấy, ở tai bèn có thể nghe. Nơi điện thoại, nó có thể nghe âm thanh, vẫn là một thứ điện. Điện chẳng có hai, nhưng ở mỗi loại máy [bèn khởi tác dụng] mỗi khác; vật dụng khác nhau, nó khởi tác dụng khác nhau. Khi nó ở chỗ máy lạnh, nó c̣n tỏa ra gió mát để hưởng thụ. Nơi ḷ nướng, nó có thể nấu nướng này nọ, hâm nóng thức ăn cho ta ăn. Công cụ khác nhau, nó sẽ khởi tác dụng không
giống nhau. Chúng ta sánh ví điện như chân tâm, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
là những công cụ khác nhau. Ở mắt, nó liền sanh ra tác dụng thấy, có thể thấy. Ở tai, nó có thể nghe, ở mũi, nó có thể ngửi, ở lưỡi, nó có thể nếm, nơi ư, nó có thể
biết. Nơi các căn khác nhau, tức lục căn, nó khởi tác dụng khác nhau, thật ra, nó là một. Thứ này bất sanh, bất diệt, thứ này là thật. Cậy vào giả để tu chân, hễ tu th́ phải tu chân tâm, chỉ là tự
tâm. Liễu đạt điều này bèn gọi là Hoa Nghiêm tam-muội. Quư vị thật sự hiểu rơ, thật sự thông đạt chân tướng sự thật này, liền định ở nơi ấy. Tam-muội là ở chỗ này, chúng ta đă học trong phần trước, “nhất tâm chỉ trụ” (an trụ
nơi nhất tâm) là tam-muội.
Trong
kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy người ta “bỏ thức dùng căn bèn thành Phật”. V́ sao phàm phu chẳng thành Phật, mà thành phàm phu? Họ dùng thức, chẳng biết dụng tâm. “Dụng tâm” là ǵ? Dụng tâm là dùng căn tánh của lục căn, căn tánh là tâm. Tâm và thức sai khác ở chỗ nào? Tâm chẳng có
vọng tưởng, chẳng có phân
biệt, chẳng có chấp
trước, bất sanh, bất diệt; thức có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước, sanh diệt trong từng sát-na. Dùng căn, chẳng dùng thức, là ai? Pháp Thân Bồ Tát, trong giáo pháp Đại Thừa thường nói là “minh tâm
kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, các Ngài thành Phật như thế nào? Các Ngài dùng căn, chẳng dùng thức, bèn thành Phật. Các Ngài dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Do chúng sanh trong mười pháp
giới đều dùng thức, tức là nói họ có phân biệt, có chấp trước, có khởi tâm động niệm, lục đạo
phàm phu có trọn vẹn những thứ ấy, toàn bộ ba thứ phiền năo đều có. A La Hán và Bích Chi Phật đă đoạn
Kiến Tư phiền năo, tức là chẳng chấp
trước. Do không chấp
trước, nên đắc thanh
tịnh tâm, nhưng chưa đạt được b́nh đẳng, chưa đạt được giác. Tiến cao hơn, Bồ Tát, Phật đoạn Trần Sa phiền năo, cao hơn A La Hán, nhưng các Ngài c̣n có khởi tâm
động niệm; khởi tâm
động niệm là Vô Minh phiền năo.
Lại có thể đoạn trừ Vô Minh phiền năo, tức là chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
không chấp trước; khi ấy, các Ngài dùng ǵ? Các Ngài dùng căn tánh của sáu căn, chẳng dùng thức, đó là thành Phật, vượt thoát mười pháp
giới. Các Ngài trụ nơi đâu? Các Ngài trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai, cơi ấy gọi là Nhất Chân pháp giới. Chúng ta cúng trái cây trước Phật, trái cây tượng trưng Nhất Chân pháp
giới, chúng ta hy vọng có thành tựu như vậy
trong một đời. V́ vậy, nó biểu thị pháp, nhắc nhở chính ḿnh, mà cũng
nhắc nhở người khác, nhằm biểu thị pháp. Nói theo sách Hợp Tán, Hoa Nghiêm tam-muội là nhân quả trong tự tánh, chẳng phải là nói đến ǵ khác.
“Như Gia Tường Sớ vân: Thử tam-muội giai sức Pháp Thân” (Như Gia Tường Sớ nói: “Tam-muội này trang hoàng Pháp Thân”), Pháp Thân là tự tánh, “cái vị thử tam-muội tất trang nghiêm Pháp Thân” (có ư nói là tam-muội này ắt trang nghiêm Pháp Thân). Tiếp đó, nói rất
hay, “Pháp Thân tức bổn diệu minh tâm, tức thị tự tâm”
(Pháp Thân chính là tâm diệu minh vốn có,
tức là tự tâm), đây là chân tâm của chính ḿnh, chẳng
phải là vọng tâm. Vọng tâm là A Lại Da. Trang nghiêm Pháp Tánh, ở đây là tự tâm, là Pháp Tánh, là tự tánh. Đức Phật nói ra mấy chục danh xưng, nhưng đều là một chuyện. V́ sao là một chuyện mà đức Phật nói nhiều danh xưng như vậy? Đây là sự khéo léo trong giáo học, đức Phật dạy chúng ta chớ nên chấp trước tướng danh tự, v́ sao? Tướng danh tự là giả,
chẳng thật. Quư vị chấp tướng danh
tự th́ sai mất rồi. Chớ nên chấp trước tướng danh tự. Chớ nên chấp
trước tướng ngôn thuyết, ngôn
thuyết cũng là giả, cũng chẳng thật. Trong những giả danh, giả tướng ấy, nếu quư vị có
thể ngộ nhập nghĩa lư thật sự của chúng th́ là đúng, đó mới là học Phật. Chấp trước giả danh, giả tướng là sai mất rồi, vĩnh viễn chẳng thấy tự tánh; ở đây, gọi tự tâm là tự tánh. “Cố tri nhất thiết pháp, vô bất từng thử pháp giới
lưu xuất” (V́ vậy biết, hết thảy các pháp,
không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất), “pháp giới” là tự tánh, c̣n gọi là Pháp Tánh, cũng gọi là tự tâm, bổn diệu minh tâm, từ chỗ này lưu xuất, cuối cùng là như thế nào? “Phục hựu hội quy thử pháp giới dă” (rồi lại trở về pháp giới này), đến cuối cùng vẫn phải quy hoàn pháp giới này, trở về pháp giới ấy bèn thành Phật.
Trong
Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc
sư, câu này đă được giảng rất rơ ràng, rất minh bạch, vũ trụ do đâu mà có? Vạn sự vạn vật trong vũ trụ do đâu mà có? Buổi tối, chúng ta nh́n lên không gian, vô số các tinh hệ, tinh cầu do đâu mà có? Hiền Thủ quốc
sư đă căn cứ trên những điều được dạy trong kinh Hoa Nghiêm, bảo chúng ta: Từ một Thể, Thể ấy là “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Nói một danh từ dài như thế đó, đấy là ǵ? Là tự tâm như chúng ta vừa mới học. Tự tâm là tự tánh thanh tịnh viên minh thể. Nói nhiều như thế, ư nghĩa trong ấy cũng rất phong phú; chúng ta nói “tự tâm” th́ cũng chẳng dễ hiểu cho lắm. Tự tánh là tự tâm, trong tự tánh có trí huệ viên măn, có đức năng viên măn, đức
năng là ǵ? Kiến văn
giác tri
(thấy, nghe, hay, biết) là Tánh Đức vốn sẵn có trong tự tánh. Khi giác ngộ, khi minh tâm kiến tánh giác ngộ, nó liền hiện tiền, kiến văn giác tri hiện tiền. Nói thực
tại là như trong phần trước đă nói, trong hội Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn đă bảo “bỏ thức dùng căn”, kiến văn
giác tri là căn tánh của sáu căn, là chân tánh. Trong tự tánh có tướng
hảo viên măn; tướng hảo viên măn là y báo và chánh báo
trang nghiêm trong mười pháp
giới, thảy đều trọn đủ. Do vậy, thứ ǵ nó cũng đều chẳng có, nó chẳng phải
là vật chất, mà cũng chẳng
phải là tinh thần. Quư vị chẳng thể nói nó là Vô (không có ǵ), trong Phật pháp nói nó là Không, dùng Không để h́nh dung nó. Nó không hiển lộ, nhưng trọn đủ. Khi có duyên, nó có thể sanh ra vạn pháp, nó bèn hiện, bèn tỏ lộ. V́ vậy, khi nó chẳng hiện, không thể nói nó là Vô; [khi nó] hiện ra, chẳng thể nói nó là Hữu, v́ sao? Cái hiện ra là huyễn tướng, chẳng thật. Tôi vừa mới nói, hiện
tượng được hiện ra đều là tướng sanh diệt. Tướng sanh diệt chẳng phải là thật, bất sanh,
bất diệt là thật. Quư vị thấy các tướng được hiện há có phải là bất sanh, bất diệt? Toàn là tướng sanh diệt. Do vậy, nhất
định phải hiểu rơ chân tướng sự thật này, chẳng sanh chấp trước đối với hết thảy các tướng cảnh giới, v́ sao? Tướng là
giả, nó không tồn tại, hễ quư vị chấp trước là trật rồi, không chấp
trước là đúng. Có thể dùng nó,
[nhưng phải là] diệu
dụng, tức là tùy duyên diệu dụng. Diệu dụng là khi dùng bèn chẳng có phân biệt, chẳng có chấp
trước, chẳng có khởi tâm động niệm, khởi tác dụng hoàn
toàn giống như chư Phật Như Lai, đạo lư là như thế đó. Chúng ta chớ nên không biết điều này.
Quư
vị thấy: Từ một Thể khởi hai tác dụng, một Thể là pháp giới này, từ pháp giới này mà lưu xuất. V́ sao có thể khởi hai tác dụng? Trong kinh giáo Đại Thừa thường nói “nhất niệm bất
giác”. Nhất niệm bất giác th́ trong tự tánh liền khởi tác dụng, biến thành A Lại Da, tức là vọng tâm. Thể của vọng tâm là chân tâm. Chẳng có chân tâm, vọng do đâu mà có? Giống
như chúng ta đứng dưới mặt trời sẽ có bóng, bóng do đâu mà có? Bóng do người mà có, người là chân tâm, bóng là vọng tâm. Nhưng h́nh và bóng chẳng tách rời, v́ sao? Chúng tách rời nhau, sẽ chẳng thể tồn
tại. Chúng chẳng thể tách rời, nên nói “chân và vọng như một”; nhưng chúng là hai chuyện, chẳng
phải là một chuyện, quư vị
nhất định phải hiểu rơ ràng. Chúng ta mê là v́ mê muội, không hiểu rơ, quên mất chân, ngỡ vọng là chân!
Sáu
căn của mỗi người chúng ta đều có căn tánh, ai biết căn tánh của sáu căn? Đức Phật dạy, chúng ta mắt thấy, tai nghe, niệm thứ nhất là chân tâm, là kiến văn giác tri khởi tác dụng. Niệm thứ nhất quư vị c̣n chưa khởi niệm, ta nh́n, trừng mắt
nh́n, vẫn chưa có phân biệt, c̣n chưa có chấp trước, tâm giống một tấm gương, soi bên ngoài rành rẽ, chẳng khởi phân biệt. Niệm thứ hai liền dấy lên phân biệt, dấy lên phân biệt là trật rồi, đó là vọng tâm. Vọng tâm sẽ phân biệt, chấp trước. Phân biệt là thức thứ sáu, tức ư thức. Chấp
trước là thức thứ bảy, nó khởi tác dụng. Chủng tử in dấu trong A Lại Da, nay chúng ta nói là “lưu ấn tượng”, ghi ấn tượng nơi kiến văn giác tri của quư vị. Ấn tượng ấy giống như được
chép vào kho dữ liệu. A Lại Da là kho dữ liệu, vọng tâm khởi tác dụng, kho dữ liệu ghi lại ấn tượng, bèn gọi là Nghiệp. Nghiệp gặp duyên, quả báo liền hiện
tiền. V́ vậy, niệm thứ nhất, một niệm bất giác chẳng có nguyên nhân. Niệm ấy có thật hay không? Chẳng thật, nếu là thật, nó sẽ có nguyên nhân thật sự,
nhưng nó chẳng có nguyên
nhân, nên chẳng thật; [do đó] gọi là vọng niệm, hoặc vọng
tưởng. Phải chú ư chữ Vọng. Vọng là về căn bản chẳng có, dấy lên một niệm như thế. Nếu niệm ấy dừng lại, đ́nh chỉ, bèn trở về
tự tánh, lập tức trở về tự tánh. Nếu là từng niệm tiếp nối nhau, bèn chẳng thể quay
về, nó liền lưu xuất. Từ pháp giới này lưu xuất cơi Thật Báo. Từ cơi Thật Báo lại lưu xuất cơi Phương
Tiện. Chư vị
phải biết: Cơi Phương
Tiện là tứ thánh pháp
giới. Từ cơi Phương Tiện lại lưu xuất cơi Phàm Thánh, cơi Phàm Thánh là lục
đạo luân hồi, mê hết sức nghiêm trọng. Phật, Bồ Tát từ bi chỉ dạy, giúp chúng ta quay
đầu, chúng ta từ lục
đạo trở lại tứ thánh pháp giới, từ tứ thánh pháp
giới lại trở về cơi Thật Báo, từ cơi Thật Báo lại trở về
tự tánh, lại trở về chỗ phát xuất. Có người hỏi: Sau khi trở về, có thể mê nữa
hay không, lại lưu xuất hay không, lại biến thành luân hồi ư? Đức Phật dạy: Vĩnh viễn sẽ không! Sau khi đại
triệt đại ngộ, vĩnh viễn chẳng mê lần nữa. Trong kinh Lăng Nghiêm đă giảng vấn đề này rất rơ ràng. V́ thế, trong giáo pháp Đại Thừa, kinh Lăng Nghiêm được gọi là “khai huệ Lăng Nghiêm”, nghĩa là kinh Lăng Nghiêm khai trí huệ, “thành Phật Pháp Hoa”. Hai bộ kinh ấy cũng hết sức nổi tiếng trong Đại Thừa. Từ pháp giới lưu xuất, là từ tự tánh lưu xuất; cuối cùng, vẫn trở về tự tánh, trở về tự tánh liền viên măn thành Phật.
Chúng
ta xem đoạn tiếp theo, tức là đoạn Tổng Tŕ. Tổng Tŕ là đà-la-ni, tiếng Phạn là Đà-la-ni, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Tổng Tŕ, [hàm ư] bao gồm hết thảy các pháp, nắm giữ hết thảy các nghĩa. Nếu nói thông thường, quư vị nắm được
tổng cương lănh, tổng
nguyên tắc, bèn gọi là Tổng Tŕ. “Cụ túc
giả, sở cụ măn túc, cái vân nhất thiết
đà-la-ni môn vô sở bất cụ dă” (“cụ
túc” là đầy
đủ, trọn vẹn, ư nói: Hết thảy các
đà-la-ni, không môn nào chẳng đầy đủ). Tôn
giả A Nan đắc Văn Tŕ đà-la-ni, đắc pháp môn Tổng Tŕ này, đối
với hết thảy các kinh do đức Phật đă nói, dẫu Ngài chưa nghe, nhưng vừa tiếp xúc đều hoàn toàn thông đạt, hiểu rơ. Từ Lục Tổ Đàn Kinh, chúng ta cũng thấy, khi Huệ Năng đại
sư khai ngộ cũng đạt được [Tổng Tŕ]. Chúng ta biết: Huệ Năng đại
sư chưa từng đi học, không biết chữ, hai mươi bốn tuổi khai ngộ, ḥa thượng
Ngũ Tổ Nhẫn bèn truyền y bát cho Ngài. V́ sao chúng ta biết Ngài đắc đà-la-ni? Từ những ghi chép trong Đàn Kinh, chúng ta có thể thấy. Khi Ngài lánh nạn, trên đường qua thôn Tào Hầu, gặp tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng. Đó là lúc Ngài vừa mới nhận được y bát, Ngài bèn trốn đi, giữa đường gặp tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng. Vị tỳ-kheo-ni này thọ tŕ kinh Đại Niết Bàn, cũng là hằng ngày đọc tụng, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài! Cổ nhân khó có; v́ thế, người hiện thời chẳng bằng cổ
nhân, từ chỗ này, ta thấy được thiện căn của cổ nhân, ni sư thật sự hành! Kinh Đại Niết Bàn phân lượng rất lớn, hiện thời từ Đại Tạng Kinh, quư vị có thể thấy kinh ấy có hai bản dịch, một bản gồm ba mươi sáu
cuốn, bản kia gồm bốn mươi cuốn. Do vậy, kinh rất dài, nhưng bà ta niệm hằng ngày. Thuở ấy, Huệ
Năng đại sư mang thân phận cư sĩ, chưa xuất gia, người bên ngoài đều chẳng nhận biết Ngài. Ni sư niệm kinh ở đó, Ngài ở bên cạnh nghe. Sau khi niệm một đoạn, bà ta ngừng lại, Huệ
Năng đại sư liền giảng cho tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng đại ư của đoạn kinh văn Ngài vừa nghe niệm. Bà ta nghe xong, hết sức kinh ngạc, Ngài giảng hay quá, bèn cầm kinh bổn hướng về Ngài thỉnh giáo. Huệ Năng
đại sư nói: “Ta không biết chữ”. Bà ta hỏi: “Ngài không biết chữ, v́ sao giảng hay dường ấy?” Ngài đáp: “Chuyện
này chẳng liên quan đến biết chữ hay không
biết chữ”. Đắc đà-la-ni, sẽ nắm được tổng cương lănh thuyết pháp của hết thảy
chư Phật, nên bất luận kinh giáo ǵ, Ngài vừa nghe liền hiểu toàn bộ. Không chỉ là hiểu Phật pháp, mà pháp thế gian thứ ǵ cũng đều hiểu rơ, chẳng có ǵ Ngài không hiểu. V́ đó là tự tánh của quư vị, trí huệ Bát Nhă
trong tự tánh của quư vị khởi tác dụng, đạo lư là như vậy đó!
Pháp
môn Đại Tổng Tŕ, hết thảy chúng sanh ai nấy đều có. Chỉ v́ chúng ta đang mê, cũng có thể nói là lục căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần, lập tức tiếp theo sẽ là khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước, cùng nhau dấy lên. V́ vậy, trí huệ và đức tướng trong tự tánh đều không thể hiện tiền. Trong kinh Đại
Thừa, đức Phật đă giảng rất rơ ràng, rất dễ hiểu, phàm phu thành Phật phải mất bao lâu? Trong một niệm! Một niệm giác, phàm phu bèn thành Phật. Một niệm mê, quư vị bèn thành phàm phu, chuyện là như vậy đấy! Giác là ǵ? Buông xuống liền giác. Buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước xuống liền giác, quư vị và hết thảy chư Phật chẳng khác ǵ nhau! V́ sao không chịu buông xuống? Chúng ta thường nói là “nghiệp
chướng”, phiền năo tập khí quá nặng! Câu nói ấy đúng lắm, nghe hợp lư! Chúng ta mê đă lâu, mê quá sâu, đức Phật chỉ điểm rạch ṛi, nhưng chúng ta chẳng có năng lực quay đầu. Muốn quay đầu, nhưng không quay về được! Nói thật ra, thuở ấy, Chương Gia đại
sư đă từng nhắc nhở tôi về chuyện này. Tôi đă cùng lăo nhân gia thảo luận vấn đề sau đây; đó là một vấn đề trọng yếu trong triết học: “Rốt cuộc là biết khó, hành dễ, hay là biết dễ, hành khó?” Thầy bảo tôi: “Phật
pháp là biết khó, hành dễ”. Nói chung, chúng tôi cảm thấy: Biết chẳng khó, quư vị vừa nói, tôi hiểu ngay, nhưng hành quá khó, v́ sao tôi không thể buông xuống? V́ sao chẳng chuyển được?
Thầy nói: “Anh chẳng hiểu biết thật sự! Nếu anh thật sự biết, sẽ buông xuống ngay!” Câu ấy khiến tôi chới với, chúng ta biết ǵ? Hiểu biết nửa vời, biết chẳng thấu triệt, biết chẳng viên măn. Thật sự
biết thấu triệt, há lẽ nào chẳng buông xuống
được? Thầy nêu tỷ dụ để giảng cho tôi dễ hiểu. Thí dụ như chúng tôi ngồi ở cái bàn này, thầy nói: “Ở trên cái bàn này đặt một đống vàng, bên kia đặt một đống đồng thau. Nay muốn tặng cho anh một trong hai thứ ấy, anh hăy tự
chọn lựa, anh chọn vàng hay đồng thau? Đương nhiên muốn lấy vàng, v́ sao? Anh biết nó có giá trị
rất cao, nên chọn lấy. Làm như vậy tức là anh đă Thủ (giữ lấy), rất dễ
dàng. Anh biết thứ ấy là quư báu, rất hiếm có”. Thầy bảo tôi: “Phật pháp là biết khó, hành dễ”.
Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh thuyết pháp bốn
mươi chín năm là “biết khó”. Thành Phật rất dễ dàng, như tôn giả Ca Diếp [chẳng hạn], Thích Ca Mâu Ni Phật cầm cành hoa mỉm cười. Khi tôn giả Ca Diếp thấy Thích Ca Mâu Ni Phật cầm cành hoa, bèn nh́n Phật cười, Thích Ca Mâu Ni Phật liền truyền pháp cho Ngài, Ngài đă khai ngộ rồi! Do vậy, chúng ta thấy Lục Tổ Huệ Năng
đại sư ở trong phương trượng thất, nghe lăo ḥa thượng giảng đại ư kinh Kim Cang, Ngài chẳng biết chữ, chắc chắn chẳng có kinh bổn, giảng đến câu “ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền đại triệt đại ngộ. Chẳng cần giảng nữa! Không chỉ kinh Kim Cang chẳng cần giảng, mà tất cả
hết thảy các kinh Ngài đều hiểu toàn bộ, đó chẳng
phải là “một kinh thông,
hết thảy các kinh đều thông” ư? Phật pháp đă thông đạt, pháp thế gian
cũng thông đạt, quư vị nói có dễ dàng lắm hay không? V́ thế, một câu Khẩu Đầu Thiền trong Tông Môn là “hiểu
không?” Chữ Hiểu ấy tuyệt diệu tột bậc!
Hễ hiểu, quư vị liền khai ngộ. Chẳng hiểu th́ vẫn mê hoặc. Do vậy, hễ buông xuống
liền hiểu, khó ở chỗ chúng ta không buông xuống
được. Không buông xuống
được là ǵ? Những ǵ đức Phật đă giảng đều là giả, nhưng chúng ta vẫn coi là thật; do chẳng coi nó là giả, vẫn y như cũ coi là thật, nên chẳng buông xuống được!
Người có thể buông xuống những thứ ấy, thật sự thấy chân là giả, chẳng coi thân thể là thật, đó là cửa ải đầu tiên. Cửa ải đầu tiên là thân, tức Thân Kiến. Quư vị thấy [trong việc] đoạn
phiền năo, đức Phật xếp thứ này đầu tiên, Thân Kiến! Thứ hai là Biên Kiến, thứ ba là Kiến Thủ Kiến, [thứ tư là] Giới Thủ Kiến, và [thứ năm là] Tà Kiến; trước hết, buông những thứ ấy xuống. Buông năm thứ kiến giải sai lầm xuống, trong Phật pháp, quư vị được gọi là “nhập môn”, là đệ tử thật sự của Thích Ca Mâu Ni Phật. Hễ buông năm cách nh́n sai lầm ấy xuống, bèn là học tṛ lớp dự bị trong ngôi trường của Thích Ca Mâu Ni Phật, chưa phải là học tṛ chánh thức, buông xuống [toàn bộ Kiến Tư Hoặc]
mới là chánh thức. Địa vị Sơ Tín trong Thập Tín Vị Bồ Tát của kinh Hoa Nghiêm đă buông xuống; tuy địa
vị ấy rất nông cạn, giống như lớp Một Tiểu Học, nhưng chúng ta chớ nên xem thường họ. Họ là thánh nhân, chẳng phải là phàm phu. Tuy họ c̣n ở trong lục đạo, chưa thoát khỏi lục
đạo, nhưng quyết định chẳng đọa trong ba ác đạo,
người ta có bản lănh ấy! Trong lục đạo, qua lại tối đa bảy lần trong cơi trời hay nhân gian, liền vượt thoát lục
đạo luân hồi. Người ta đă học lớp Một, chẳng lui sụt, chỉ có tiến cao hơn. Bảy lần qua lại bèn học tới lớp Bảy, lớp Bảy là A La Hán, lớp Tám là Bích Chi Phật, lớp Chín là Bồ Tát, lớp Mười bèn thành Phật, họ là Phật [trong mười pháp giới], được
bảo đảm. Bất quá, tốc độ tiến triển của mỗi người khác nhau. Có người lợi căn, tốc độ tiến triển nhanh chóng. Có người căn tánh chậm lụt hơn một chút, tốc độ tiến triển khá chậm, nhưng họ tuyệt đối chẳng thoái chuyển, chứng đắc Vị Bất Thoái. Nay chúng ta ngay cả địa vị thánh chúng nhỏ nhoi ấy vẫn chẳng đạt được,
nguyên nhân là vẫn chưa thấy thấu suốt Thân Kiến, cửa ải đầu tiên khó nhất. Sau khi phá được cái ải này, những ải sau đó liền dễ
dàng. Biên Kiến, nếu nói theo cách bây giờ, sẽ là chẳng c̣n có quan niệm đối lập nữa! Chúng ta đối lập với kẻ khác, đối lập với sự, đối lập với hết thảy
vạn vật, đó là quan niệm sai lầm. Đối lập nếu nâng cao hơn, chúng ta nói là “có mâu thuẫn”. Mâu thuẫn nếu nâng cao hơn bèn có xung đột. Xung đột lại nâng cao hơn nữa, sẽ là đấu tranh. Đấu tranh nếu nâng cao hơn nữa th́ là chiến tranh.
V́ thế, rất nhiều phiền năo, tai nạn có cội nguồn là do đối lập mà ra. Chẳng có đối
lập sẽ ḥa hài, thật sự ḥa hài, b́nh đẳng đối đăi, cư xử ḥa
thuận. Do v́ đối lập, họ biết đây là chuyện tốt đẹp, nhưng vẫn chẳng làm
được, bị quan niệm sai lầm quấy phá, tạo thành chướng ngại.
Tiếp đó nói: “Đà-la-ni hữu tứ
chủng” (Đà-la-ni có bốn thứ), kinh giáo thường nói như vậy. Thứ nhất,
“Pháp đà-la-ni, hựu danh Văn đà-la-ni, ư Phật chi giáo
pháp văn tŕ nhi bất
vong dă” (Pháp đà-la-ni, c̣n gọi là Văn đà-la-ni, đối với giáo pháp của Phật, nghe rồi vâng giữ chẳng quên). Đây là loại thứ nhất. Tôn giả A Nan
đắc Văn Tŕ chẳng quên, nên kết
tập Kinh Tạng, mọi người đều tôn sùng A Nan, Ngài nhắc lại lần nữa các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng thuở tại thế. Năm
trăm vị đồng
học, các vị ấy đều là A La Hán, năm trăm vị A La Hán làm chứng cho Ngài, nghe Ngài nói. Nếu có chỗ nào nói sai, sẽ nêu ra, câu ấy của A Nan phải gạt bỏ, v́ có người
phản đối. A Nan phức
giảng (trùng tuyên), năm trăm người đều chấp thuận,
đều đồng ư, mới ghi chép lại, cách làm này khiến cho người đời sau sanh tín tâm đối
với kinh điển. V́ thế, ngài A Nan mở đầu [bằng câu]: “Như thị ngă văn”, nói rơ những điều được nói sau đó hoàn toàn do Thích Ca Mâu Ni Phật nói, tôi đích thân nghe Thích Ca Mâu Ni Phật nói, giữ chữ Tín với đời sau. Đó cũng là như người Hoa nói “có trí nhớ mạnh mẽ”, học rộng, nhớ dai, trí nhớ tốt, sau khi Ngài nghe xong, có thể ghi nhớ. Ngài A Nan thật khó có, nghe xong, vĩnh viễn chẳng quên mất, phàm nhân chúng ta chẳng thể! Thuở tôi c̣n trẻ, cũng có năng lực nghe rộng, nhớ dai, đại khái là trước năm bốn mươi tuổi. Sau bốn mươi tuổi, dần dần thoái hóa, năng lực ấy dần dần kém hẳn. Khi tôi theo thầy Lư học Giáo, năng lực ấy rất mạnh, gần như tôi nghe lăo nhân gia giảng kinh một giờ, tôi phức giảng, tức là giảng lặp lại một lần, tôi có thể
giảng tối thiểu chín phần mười, có năng lực ấy. Hơn nữa, có thể ghi nhớ không quên, có thể nhớ suốt một tuần, trong ṿng một tuần tôi có thể giảng tới chín phần mười. Do vậy, thuở ấy học kinh giáo cũng rất thuận tiện, tiến bộ hết sức mau, đúng là “pháp hỷ sung măn”.
Thứ hai là “Nghĩa đà-la-ni, ư chư pháp chi nghĩa tổng tŕ nhi bất vong dă” (Nghĩa đà-la-ni, đối với ư nghĩa của các pháp bèn tổng tŕ chẳng quên). Loại trước là nhớ kỹ mỗi câu, là nói đến giáo, giáo pháp; ở đây là nói tới lư luận, nghĩa lư. Phía
trước là trí nhớ mạnh mẽ, ở đây là sức lư giải mạnh mẽ. Thật sự nghe hiểu, thật sự minh bạch. Đối với nghĩa lư bèn hiểu rơ, tổng tŕ, chẳng quên. Trong một thời gian dài, có thể nói là suốt đời chẳng quên mất. Thời gian nhớ ngôn ngữ sẽ ngắn hơn.
Thứ ba, “Chú đà-la-ni, ư chú tổng tŕ nhi bất vong dă” (Chú đà-la-ni, tổng tŕ các chú chẳng quên mất). Chú tương đối khó nhớ hơn, v́ sao? Rất nhiều chú không phải là ngôn ngữ trong nhân gian. Theo cách nói của chúng ta trong hiện thời, chú là ngôn ngữ ngoài không gian, thuộc về chiều không gian khác, chúng ta thường nói là “ngôn ngữ của thần linh”. Khi đức Phật giảng kinh, họ cũng đến nghe. “Đức Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy
theo từng loại đều hiểu”. Do vậy, đức Phật thuyết pháp chẳng có chướng ngại, bất luận kẻ nào đến nghe, đều nghe thấy đức Phật nói bằng ngôn ngữ của chính ḿnh, điều này chẳng
thể nghĩ bàn! Đức Phật có năng lực ấy, nhưng đức Phật rất từ bi, thấy [trong thính chúng] có những chúng sanh chúng ta không nh́n ấy, đức Phật giảng nói xong, dùng ngôn ngữ của họ nói mấy câu. Tuy nói mấy câu, không nhiều lắm, nhưng đă nêu hết những cương lănh và nguyên tắc trọng yếu mà đức Phật đă giảng trong bộ kinh này. Do những câu ấy chẳng phải là ngôn ngữ trong nhân gian, người Ấn Độ nghe cũng không hiểu. Đó là đối
với mật chú [mà nói]. Chúng ta hiểu: Những vị đại đức tu Mật Tông cũng chẳng phải là có thể thành tựu ngay trong một đời. Sự thật này khiến cho chúng ta liễu giải: Bất cứ ai, bất luận quư vị
học pháp môn nào, pháp thế gian hay Phật pháp, đều là
nhiều đời nhiều kiếp tích lũy trí huệ, kỹ
thuật, nên quư vị mới có thể thông thạo, mới có thể có thành tựu rất thù thắng, chẳng phải là một đời, mà đều là đời
đời kiếp kiếp tích lũy. Cùng một đạo lư như vậy, trong đời này, sự phú quư bần tiện của mỗi người đều do quả báo. Quả ắt có nhân, nhân
đều do đời trước tích lũy. Mỗi người có thành tựu đặc thù hoặc có cống hiến đặc thù trên một phương diện nào đó, nếu chẳng tích lũy từ năm đời trở lên, họ chẳng thể đạt tới thành tựu này. Qua Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, chúng ta thấy câu chuyện của Ngộ Đạt quốc sư, Ngài được
coi là một vị xuất gia có thành tựu, làm thầy của đế vương, được
phong làm Quốc Sư. Trong Từ Bi Thủy Sám, tôn giả Ca Nặc Ca nói nhân duyên của Sư. Sư tu hành
mười đời, lại c̣n là mười đời liên tiếp, mười đời đều được làm người, đều
xuất gia, chẳng
phải là chuyện dễ dàng! Do vậy, chúng ta hiểu: Người trong
thế gian địa vị càng cao, thời gian tu hành càng lâu. Tu tốt đẹp mới có thể đạt được,
chẳng phải là người b́nh phàm có thể đạt được, của cải cũng do nhiều đời
nhiều kiếp tu được,
chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên.
Chúng
ta hiểu rơ đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật, chúng ta sẽ chẳng hâm mộ những người phú quư, v́ sao? Người ta
trong đời quá khứ tu hành tốt đẹp, ngày nay quả báo hiện tiền. Chúng ta nếu
muốn giống như họ, hăy khéo hành, chúng ta có thể tích lũy, nói không chừng đời sau c̣n thù thắng hơn họ, đó là đạo lư nhất
định. Nhưng học Phật phải giác, chớ nên mê, học Phật cầu vinh hoa phú quư trong lục
đạo, đó là mê chứ chẳng giác. Quư vị địa vị cao, của cải to lớn, rất dễ tạo nghiệp. Nếu trong đời này, quư vị mê trong ngũ dục, lục trần, khẳng định đời sau quư vị bị đọa lạc. Sai mất rồi! Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta thị hiện, quư vị thấy Ngài sanh trong nhà đế vương, vứt bỏ ngôi vua. Ngôi vua là thứ mọi người ắt tranh giành; người Trung Quốc nói: “Thiên tử sang quư, giàu khắp bốn biển”,
phú quư tột
đỉnh, đó là làm Hoàng Thượng. Đức Phật đă có ngôi vua trong tay, nhưng từ bỏ. Quư vị thấy Ngài lợi
hại lắm, mười chín tuổi liền từ bỏ, bỏ ngôi vua, đi ra ngoài học đạo. Ba mươi tuổi thành đạo, đại
triệt đại ngộ thành đạo; sau khi thành đạo, suốt đời giáo học giống như Khổng lăo phu tử. Nhưng Khổng lăo phu tử c̣n thu một chút học phí, đức Phật chẳng thu học phí. Mỗi ngày đi khất thực, giữa trưa ăn một bữa, nghỉ dưới cội cây, sống cuộc đời của một vị Tăng khổ hạnh. Đó là biểu diễn cho chúng ta xem, khiến cho chúng ta suy nghĩ, v́ sao Ngài chọn lựa [con đường] ấy? Nhất định c̣n cao minh hơn làm quốc vương! Làm quốc
vương, rất ít kẻ không thoái đọa, rất ít, đó là ǵ? Các vị “cổ thánh tiên vương” như người Trung Quốc đă nói, tuy làm quốc vương nhưng chẳng thoái đọa, giống như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vương, Vơ Vương, Châu Công trong lịch sử Trung Quốc, đó là quốc vương thánh hiền. Những vị ấy đời sau có thể sanh lên trời làm thiên vương, họ thăng lên cao, chẳng bị đọa lạc, họ làm quá nhiều chuyện tốt, đúng là v́ nước, v́ dân, chẳng v́ chính ḿnh, chẳng biết đến chính ḿnh. Sau Văn Vương, Vơ Vương, Châu Công, chưa từng nghe nói có những vị thánh vương như vậy. V́ thế, những điều này đều đáng cho chúng ta suy nghĩ sâu xa, đáng cho chúng ta học tập. Nay chúng tôi mới thật sự hiểu rơ, con đường tu học Phật pháp là đại đạo quang minh thù thắng khôn sánh. Đặc biệt là Tịnh Tông dạy chúng ta không chỉ có thể vượt thoát lục đạo trong một đời này, mà c̣n vượt thoát mười pháp giới. Nhất là bộ kinh này bảo đảm chúng ta trong một đời có thể sanh về thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng giống như là nói đảm bảo quư vị chứng đắc Phật quả viên măn rốt ráo ngay trong một đời, trong
tất cả các pháp môn, chẳng t́m thấy pháp thứ hai! Chúng ta phải thật sự hiểu rơ, thật sự minh bạch, đối với chính ḿnh, [quả thật là] hết sức may mắn, đời này đúng là khó có, thật sự chẳng dễ dàng!
Chúng
ta lại thấy phía dưới c̣n có giải thích,
giải thích về chú ngữ. “Chú giả, Phật, Bồ Tát tùng Thiền Định sở phát chi bí mật ngôn cú, hữu bất trắc chi thần nghiệm, danh vi Chú đà-la-ni” (Chú là câu nói bí mật, có oai
lực thần dị khôn lường do Phật, Bồ Tát
từ trong Thiền Định phát ra, nên gọi là Chú
đà-la-ni), đây là nói về thần chú. Trong đoạn
trước, tôi đă nói thần chú là ngôn ngữ của
quỷ thần, đó là một loại. Ở đây nói
[tới một loại khác], không phải là ngôn ngữ
của quỷ thần, mà là những câu nói bí mật của chư Phật, Bồ Tát từ Thiền Định rất sâu phát ra, chỉ có Phật, Bồ
Tát biết, giống như là mật mă của các Ngài. Có thể giao tiếp với chư Phật, Bồ Tát, trong một thời gian rất ngắn có thể chuyển giao tin tức không ngằn hạn, nội dung bao hàm hết sức phong phú, phàm phu chúng ta chẳng thể tưởng
tượng được! Do vậy, có oai lực thần dị không lường
nổi, chẳng có cách nào tưởng tượng loại cảm ứng ấy. Đó là Chú đà-la-ni. “Nghĩa phiên chi
danh, hữu tứ” (dịch
theo ư nghĩa, thành ra bốn tên), tức là nói đến Chú th́ Chú có bốn ư
nghĩa. Thứ nhất là Minh (明), thứ hai là Chú (咒), thứ ba là
Mật Ngữ (密語), thứ tư là Chân Ngôn (真言). Đây đều là những tên gọi khác của
Chú, là tên riêng của Đà-la-ni. “Bí Tạng
Kư vân: Phàm phu Nhị Thừa bất năng tri, cố viết Mật Ngữ” (Bí Tạng Kư[2] chép: “Phàm phu, Nhị Thừa đều chẳng thể biết, nên nói là Mật Ngữ”), cũng chẳng có
giải thích. “Như Lai ngôn chân
thật vô hư vọng, cố viết Chân Ngôn” (Chân ngôn của Như Lai chân
thật, chẳng hư vọng, nên gọi là Chân Ngôn). Trên thực tế, Chú vẫn có ư nghĩa, nhưng Thượng Sư Mật Giáo không giảng cho quư vị, chỉ dạy quư vị niệm. Đây cũng là một pháp môn rất thù thắng trong
Phật pháp. V́ sao? Nếu
giảng cho quư vị, quư vị liền phân tâm. Chẳng giảng cho quư vị, do không biết ư nghĩa, quư vị một mực niệm là được rồi, dễ đắc tam-muội, dễ đắc Định. Định có thể khai trí huệ, đó cũng là pháp môn rất xảo
diệu.
Nhưng gặp phải căn tánh giống như tôi th́ không được! Nếu tôi không hiểu ư nghĩa, tôi không chịu học, có sự chấp
trước như thế, đó là tật xấu của thành phần tri thức. Do vậy, thuở ấy, tôi theo Chương Gia đại sư học Phật pháp, Ngài cũng dạy một bài chú, bảo tôi niệm. Bài chú ấy rất thông dụng, rất phổ biến, người theo Mật Giáo đều biết niệm, tức là Lục Tự Đại Minh
Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài dùng tiếng Tây Tạng dạy tôi, niệm “Án, ma-ni bát-mê hồng”, tôi liền hỏi lăo nhân gia [bài chú ấy] có nghĩa là ǵ? Ngài liền giảng cho tôi, thông
thường Ngài chẳng giảng, Ngài dạy tôi ư nghĩa khiến cho tôi hết sức hoan hỷ. “Án” (Aum) là thân thể, Ngài giải thích từng chữ một. “Ma-ni” (Maṇi) là hoa sen, “Bát-mê”
(Padme) là ǵn giữ, “Hồng” (Hūṃ) là ư. Quư vị thấy “thân, hoa sen, ǵn giữ, ư”, đó là ngữ pháp Ấn Độ. Nếu đọc theo người Trung Quốc sẽ là “Ǵn giữ thân tâm (ư là tâm) giống như hoa sen”, Ngài giải thích cho tôi như vậy. Ư nghĩa này hay lắm, khiến cho quư vị thời thời khắc khắc nghĩ tưởng, ǵn giữ thân tâm giống như hoa sen, sanh từ bùn lầy, nhưng chẳng nhơ bẩn, mang ư nghĩa này! Bùn lầy tượng trưng cho lục đạo, hoa sen và nước tượng trưng tứ thánh pháp giới, tức là tứ thánh pháp
giới trong mười pháp
giới. Hoa nở trên mặt nước, cho thấy nhiễm và tịnh thảy đều chẳng nhiễm. Không chỉ lục đạo bất nhiễm, mà pháp giới thanh tịnh cũng chẳng nhiễm, đó là tịnh chân thật! V́ thế, trong chú ngữ có rất nhiều điều vẫn cần phải nói. Nói ra, sẽ giúp cho người ta tu hành. Tu hành trong Mật Tông nhấn mạnh Tam Mật Tương Ứng, [tức là] miệng niệm chú, tay kết ấn, trong tâm quán tưởng. Nếu quư vị không hiểu ư nghĩa, chẳng có cách nào quán
tưởng. Khi không có cách nào quán tưởng, họ quán tưởng
ǵ? Quán tưởng một câu chú ngữ ấy, họ nghĩ đến câu ấy, nhưng ư nghĩa của chú ngữ th́ không biết. Giống như chúng ta hiện thời niệm A Di Đà Phật, trong tâm chúng ta nghĩ đến A Di Đà Phật, có ư nghĩa như vậy. Do vậy, sau khi
thầy truyền dạy chú ngữ ấy, tôi mới hiểu: Trong chú ngữ có rất nhiều điều thật sự giống như cái mà chúng ta gọi là “cách ngôn”, quá hay! Thời thời khắc khắc nhắc nhở chính ḿnh.
Ư nghĩa thứ tư là “Nhẫn đà-la-ni, an trụ
ư pháp chi Thật Tướng, vị chi
Nhẫn. Tŕ Nhẫn danh vi Nhẫn đà-la-ni” (Nhẫn đà-la-ni:
An trụ trong Thật Tướng của pháp bèn gọi là
Nhẫn. Giữ cái Nhẫn đó th́ gọi là Nhẫn
đà-la-ni). Trong giáo pháp Đại Thừa, Nhẫn có ư nghĩa khẳng định, thừa nhận, nên nói “nhẫn khả”
(忍可), có nghĩa là “đồng ư”. Đối với kinh giáo và giáo huấn của chư Phật, Bồ
Tát, tổ sư đại đức, có thể hiểu rơ, có thể
khẳng định, chẳng hoài nghi, hành theo lời dạy, đó là Nhẫn. Ở đây nói “an trụ
ư pháp chi Thật Tướng”, câu này nói rất cao. Thật Tướng là ǵ? Thật
Tướng là pháp tánh, tướng là giả, tánh là chân. Ví như trong phần trước, chúng ta dùng những lời đức Thế Tôn dạy vua Ba Tư Nặc trong kinh Lăng Nghiêm nhằm khiến cho vua đừng chấp
trước nhục thân này. “Căn thân”: Mắt, tai, mũi, lưỡi và thân là Căn Thân; chớ nên chấp trước những thứ ấy, phải an trụ trong căn tánh của sáu căn, căn tánh là Thật
Tướng. Thân thể của mỗi người chúng ta là giả tướng, căn tánh của sáu căn là Phật tánh, chẳng
phải là linh hồn! Căn tánh và linh hồn có ǵ khác nhau? Đồng mà bất đồng, bất đồng mà
đồng. Mê th́ gọi là linh hồn, chẳng mê bèn gọi là tánh, là cùng một chuyện. Sau khi chúng ta đă giác, thường gọi nó là “linh tánh”, chẳng gọi là “linh hồn”, mà gọi là “linh tánh”. Linh hồn chẳng thoát khỏi lục
đạo, v́ nó mê, nó luôn đi t́m cái thân trong lục đạo, đi đầu thai, đó là lục đạo luân hồi. Nó giác ngộ, A La Hán giác ngộ, buông xuống chấp trước, mà cũng chẳng chấp trước thân thể này, biết thân thể chẳng phải là Ngă, căn tánh trong lục căn nơi thân thể là Ngă, sáu thức không phải là Ngă! Chấp
trước sáu thức, đó là linh hồn, tưởng sáu
thức là Ngă. Triết gia ngoại quốc đă nói: “Tôi suy nghĩ, nên tôi tồn tại”. Đó là chấp
trước linh hồn, người ấy chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. V́ sao? “Tôi nghĩ” th́ Nghĩ là ǵ? Thức thứ sáu, tức ư thức. Người ấy biết
thân chẳng phải là Ta, Ta có thể suy tưởng, đó là ta, cái có thể suy nghĩ chính là ta! Thân chẳng phải là ta, cao minh hơn những kẻ b́nh phàm một bậc, rất khó có, nhưng không thoát khỏi lục đạo luân hồi.
Do vậy, an trụ trong Thật Tướng của pháp là đúng. Trong hết thảy vạn vật, an trụ trong Pháp Tánh; nơi thân thể chúng ta, bèn an trụ trong tự tánh của chúng ta, hoặc là [an trụ trong] căn tánh của sáu căn th́ đúng. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói: “Ĺa hết
thảy tướng, tức là
hết thảy tánh”. Chỉ cần chẳng chấp tướng, chẳng chấp trước thân tướng của chính ḿnh, đối với vạn vật cũng chẳng chấp
trước h́nh tướng của chúng, biết chúng đều do một “tự tánh thanh tịnh viên minh thể” biến
hiện. Ở đây, “tự tánh thanh tịnh viên minh thể” được gọi là “Thật
Tướng của các pháp”. Chúng ta giữ cho tâm an trụ nơi đây th́ gọi là Nhẫn. “Tŕ nhẫn”, “tŕ” là ǵn giữ vĩnh viễn, đó cũng là tam-muội. Tâm quư vị định ở chỗ này, bèn gọi là Nhẫn đà-la-ni. Đà-la-ni hễ đắc liền vĩnh viễn đắc, chẳng giống như tam-muội! Tam muội có thể mất đi, chứ đà-la-ni chẳng bị mất. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!
Tập
124
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm bốn mươi bốn, xem từ ḍng thứ tám, xem từ chỗ “bách thiên
tam-muội” trong ḍng thứ tám.
Trong
đoạn kinh văn “cụ túc
tổng tŕ bách thiên tam-muội”, trong phần trước đă học
về Tổng Tŕ, nay xem tới
phần “bách thiên tam-muội”: “Hội Sớ
viết: Bách thiên tam-muội giả, chúng sanh vô lượng, tâm hạnh bất đồng, hữu lợi, hữu
độn, ư chư kết
sử, hữu hậu, hữu
bạc, thị cố Bồ Tát hành bách thiên chủng tam-muội, đoạn kỳ trần lao” (Sách Hội Sớ giảng: “Trăm ngàn tam-muội là
v́ chúng sanh vô lượng, tâm hạnh bất đồng, có
kẻ lợi căn, có kẻ độn căn.
Đối với các kết sử, có kẻ sâu dầy, có
kẻ mỏng nhẹ. V́ vậy, Bồ Tát thực hành
trăm ngàn loại tam-muội để đoạn
trừ trần lao cho họ”). Trước hết, chúng ta xem chỗ này, đây là một đoạn
ngắn. Tam-muội là Thiền Định, dịch sang nghĩa tiếng Hán th́ thường dịch là Chánh Thọ, tức là sự hưởng thụ chánh đáng, đúng mực, bèn gọi là tam-muội. Tiêu chuẩn chánh đáng, đúng mực ở chỗ nào? Xa ĺa tập khí phiền năo th́ sự hưởng thụ của chúng ta là chánh đáng, đúng mực. Nói cách khác, có tự tư tự lợi là chẳng chánh đáng,
đúng mực, có đúng - sai, ta - người là không chánh đáng, đúng
mực, có tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, đều là chẳng chánh đáng, đúng mực. Do điều này có thể biết, người
thật sự tu hành có công phu sẽ đạt được sự hưởng thụ chánh đáng,
đúng mực. Trong tựa đề kinh,
chúng ta thấy nửa đoạn [trước]
giảng về quả đức. Quư vị tu hành thành tựu, quả đức hiện
tiền, đó là “Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm”. Chúng ta suy nghĩ cái quả ấy, quả đương nhiên có nhân. Quả ấy rất thù
thắng, nhân đương nhiên thù thắng. Nhân là ǵ? Thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, đó là tiêu chuẩn của tam-muội hiện tiền. Nếu chúng ta đắc thanh
tịnh tâm, bèn gọi là đắc tam-muội; tâm không thanh tịnh, bèn chẳng có tam-muội. Nếu tâm là tâm b́nh đẳng, đó là tam-muội càng sâu hơn. Giác chứ không mê, đó là tam-muội nơi quả địa của chư Phật. V́ thế, năm chữ ấy là sở tu của A La Hán, Bồ Tát và Phật.
V́
sao có trăm ngàn tam-muội? Trên thực
tế, không chỉ là trăm ngàn, mà là vô lượng, vô biên. V́ sao? Chúng sanh vô lượng. Chúng sanh có phạm vi bao quát vô cùng rộng, không chỉ là nhân loại. Đối
với hai chữ “chúng sanh”, các hiện
tượng do các duyên ḥa hợp sanh khởi đều gọi là “chúng sanh”. V́ thế, chúng sanh được hiểu theo nghĩa rộng, trừ con người ra, tất cả thực vật và động vật đều là chúng sanh. Thực vật cũng là chúng sanh, khoáng vật
cũng là chúng sanh. Hiện tượng tự nhiên cũng do các duyên ḥa hợp mà sanh khởi. Chúng ta thấy mây trên hư không, đó là do các duyên ḥa hợp mà sanh, nên cũng gọi là chúng sanh. V́ thế, “chúng sanh” có phạm vi rất rộng. Trừ những thứ này ra, c̣n có những loài chúng ta không thấy, các chúng sanh thuộc những chiều không gian khác biệt, đều có y báo và chánh báo trang nghiêm, y báo và chánh báo quả thật vô
lượng vô biên. Tâm hạnh của hết thảy chúng sanh bất
đồng. “Tâm” là khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước, đó là tâm. “Hạnh” là tạo tác, tạo tác cũng khác nhau. Phân chia đại lược, tức là
như kinh Phật thường nói th́ có hữu t́nh chúng sanh, căn tánh có lợi và độn. Lợi (利) là thông minh, độn (鈍) là ngu độn, do nguyên nhân nào? Hai câu kế tiếp đă nói rơ: “Ư
chư kết sử”, Kết (結) là phiền năo, Sử (使) cũng là phiền năo. Thông thường, chữ Sử chỉ Thập Sử, tức là Kiến Tư phiền năo. “Hữu hậu,
hữu bạc” (có dầy, có mỏng) Nếu là kẻ phiền năo dầy bèn ngu
độn, nếu phiền năo mỏng nhẹ liền tỏ lộ sự thông minh, mức độ dầy mỏng khác nhau. Trong nhà trường, cùng học một cấp lớp, chúng ta thường nói là cùng một cấp
lớp th́ tŕnh độ
không chênh lệch cho lắm, nhưng khi thi cử, thứ tự vẫn khác nhau, từ đứa đậu hạng nhất đến đứa đậu hạng bét, quư vị thấy đó, vẫn chẳng giống nhau. Nói cách khác, nói theo tâm hạnh, tuyệt đối chẳng t́m thấy hai người hoàn toàn giống nhau, chẳng thể được! Đến khi nào bèn giống nhau? Thành Phật sẽ giống nhau, hoàn toàn như nhau. V́ sao? Phiền năo đều đoạn hết, đoạn sạch cả rồi! Do vậy có thể biết: Đẳng Giác Bồ Tát cũng bất đồng, mọi người đều là Đẳng Giác Bồ Tát, nhưng trong các vị Đẳng Giác Bồ Tát, phiền năo
tập khí vẫn dầy, mỏng khác nhau, chúng ta có thể
lư giải điều này. Chỉ có đạt đến Phật quả rốt ráo mới là thật sự giống nhau, mảy may phiền năo tập khí đều chẳng có. Chính v́ t́nh h́nh này, nên “Bồ Tát hành bách thiên chủng tam-muội”
(Bồ Tát hành trăm ngàn loại tam-muội).
Bồ Tát trong hết thảy cảnh duyên, hoàn cảnh bất đồng, “cảnh” là hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh khác nhau, “duyên” là hoàn cảnh nhân sự. Hoàn cảnh vật chất bất đồng, hoàn cảnh nhân sự bất đồng, tâm các Ngài định một chỗ. Tam-muội là tâm định một chỗ, tương ứng với Tánh Đức. Nói cách khác, trong hết thảy
cảnh duyên, “cảnh duyên” là hai chữ thường dùng trong nhà Phật, tức là hoàn cảnh vật chất và hoàn cảnh nhân sự, chẳng bị hoàn cảnh bên ngoài quấy nhiễu, trong tâm có chủ ư, đó là tam-muội. Do vậy, tam-muội cũng được gọi là Vi (làm), trong phần trước chúng ta đă học, tâm chúng ta định ở một chỗ. Người học Phật định ở chỗ nào? Nhất
định phải định trong Tam Học Giới, Định, Huệ, chúng ta sẽ chẳng bị cảnh giới
bên ngoài quấy nhiễu, cũng chẳng c̣n mê trong cảnh giới, tạo các điều lành, bất thiện nghiệp là mê. Nếu giác chứ không mê, trong tâm sẽ có chủ tể. Nói nông cạn, tuy chúng ta là kẻ mới học Phật, nếu thiện căn của chúng ta sâu dầy, cảnh giới hiện tiền, chúng ta biết phải đối phó như thế nào, biết cư xử rất viên măn trong cảnh giới, lại chẳng tạo
nghiệp. Đó là “hành Bồ Tát
đạo”. C̣n có thể giúp đỡ người khác, lợi ích chúng sanh, đó là Bồ Tát
hạnh, là trăm ngàn tam-muội của Bồ Tát khởi tác dụng. “Đoạn kỳ trần
lao” (đoạn trần lao cho họ), trong tâm hạnh, đầu tiên là đoạn trần lao của chính ḿnh, “trần lao” (塵勞) là phiền năo; sau đấy, giúp đỡ người
khác, giác ngộ chúng sanh.
Tiếp đó, nêu tỷ dụ để nói, “thí như vị chư bần nhân dục linh đại phú, đương bị
chủng chủng tài vật, nhất thiết bị cụ, nhiên
hậu năng tế chư bần
giả” (ví như v́ muốn giúp cho người khác được
giàu to, hăy nên chuẩn bị đầy đủ các món tài vật. Đă chuẩn bị đầy đủ hết thảy rồi th́ mới có thể giúp đỡ những người nghèo). Đây là nêu tỷ dụ để nói. Bồ Tát v́ muốn giúp những kẻ nghèo ấy, nay gọi là “thoát nghèo, xóa sổ đói nghèo”,
đạt được
của cải to lớn, vị Bồ Tát ấy nhất định có năng lực, đă chuẩn bị khá nhiều tài vật,
hết thảy đều chẳng thiếu khuyết; có như vậy th́ mới có thể cứu giúp hết thảy chúng sanh bần khổ. Chữ “bần khổ” có ư nghĩa rất sâu, rất rộng. Những kẻ sơ học b́nh phàm chúng ta thấy nói “bần khổ”, bèn tưởng là bần trong bần phú (nghèo, giàu), đều nghĩ đến tài vật. Phật pháp có ư nghĩa sâu xa! Tài vật nghèo khổ chẳng tính là bần khổ, thật sự bần khổ là ǵ? Chẳng có đạo! Chẳng có đạo mới là nghèo thật sự. Cũng có thể nói, người chẳng có Giới, Định, Huệ là kẻ thật sự nghèo. Dẫu trong hiện tại, kẻ ấy có rất nhiều của cải, có địa vị rất cao, chúng ta thường nói kẻ ấy là người phú quư, phú quư là quả báo. V́ sao mà có? Trong đời quá khứ, tu tập, tích lũy phước đức; do tích phước nên kẻ ấy giàu có, do tích đức nên kẻ ấy sang quư,
kẻ ấy vừa giàu, vừa sang. Nếu suốt đời này hưởng phú quư, chẳng hề tích đức tu phước nữa, kẻ ấy thật sự là bần khổ. V́ sao? Hưởng hết phước báo ấy, sau khi hưởng hết
phước báo, khổ nạn liền đưa tới, phải biết thời gian trôi qua rất nhanh, chớp mắt đă thấy ngay! Trong
kinh Phật, chúng ta thường thấy các trường hợp như vậy rất nhiều. Bậc đại phú trưởng giả tu tập, tích lũy cái nhân tối thiểu từ ba đời trở lên. Trong nhân gian, làm đế
vương, nay gọi là người lănh đạo quốc gia, phước báo
to lớn, tối thiểu người
ấy tích lũy công đức đă mười đời. Chẳng có mười đời [tích lũy công đức], sẽ không thể đạt đến địa vị ấy. Do vậy, đây là
chuyện kẻ b́nh phàm chẳng thể làm được.
Quư vị chẳng có phước báo ấy mà quư vị đạt được,
tai họa liền xảy tới, hoặc là quư vị ngă bệnh, hoặc có thể quư vị mắc
bệnh chết ngỏm. Quư vị thấy đạt được địa
vị, nhưng chẳng hưởng phước, v́ chẳng có phước báo to lớn ngần ấy. Ngoài ra là những tai họa ngang trái, tức là tai nạn ngoài ư muốn. Những nghiệp nhân quả báo đều ở trước mặt chúng ta, quư vị chú tâm quan sát rành mạch, [sẽ thấy] chẳng sai mảy may! Chúng ta hiểu đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật, mới biết tu tập, tích lũy công đức trọng yếu dường ấy. Đức Phật dạy chúng ta tu công
đức, không khuyên chúng ta tu phước đức, v́ sao? Phước
đức chỉ ở trong nhân thiên, quả báo ở trong cơi trời người, chẳng thể vượt thoát tam giới. Đức Phật dạy chúng ta tu công
đức, Công là ǵ? Công là công phu. Công phu là ǵ? Công phu là tam-muội, Tam Học
Giới, Định, Huệ. Giới là phương pháp, do Giới đắc Định, Định là tam-muội, do Định khai Huệ, Định - Huệ có
thể vượt thoát tam giới
lục đạo. Định - Huệ nếu gặp Tịnh Tông, quyết
định được sanh về Tịnh
Độ, phước báo ấy quá lớn. Đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, phước báo b́nh đẳng với chư Phật Như Lai, thế
giới ấy là một thế giới b́nh đẳng. Phước báo thứ nhất là thọ mạng vô lượng. Chư vị phải biết: Ở trong thế gian này, thọ mạng rất hữu hạn. Bao nhiêu
người hâm mộ một trăm tuổi; thật ra, một trăm tuổi cũng chỉ là một cái khảy ngón tay
mà thôi. Trên Đao Lợi Thiên là một ngày, một ngày trong Đao Lợi Thiên là một trăm năm trong nhân gian chúng ta, các đồng học học Phật chớ nên không biết điều này.
Do vậy, chúng ta b́nh
thường phải đổ công dốc sức tu luyện, công tu như thế nào? Cổ thánh tiên
hiền đă nêu ra rất nhiều hạng mục và đức mục. Trong những năm qua, chúng ta cùng nhau học tập Đệ Tử Quy, đó là giới luật. Không chỉ là
giới luật, mà c̣n là căn bản
giới. Nói cách khác, chẳng làm được Đệ Tử Quy, những thứ khác đều chẳng thể thành tựu, nó là căn bản
của căn bản. Đệ Tử Quy học được
th́ [những thứ khác] đều có
thể làm được. Nếu tiến cao hơn một bước, bèn học Cảm Ứng Thiên. Cảm Ứng Thiên là giáo dục nhân quả; Ấn Quang đại sư hết sức coi trọng, suốt đời toàn tâm toàn lực đề xướng. Vào đời Thanh trước kia, cư sĩ Châu An Sĩ có hai câu danh ngôn, ông nói: “Ai nấy đều tin nhân
quả, đó là đạo khiến cho thiên hạ đại trị”. “Đại
trị” là đời thái b́nh thịnh
trị, cũng là nói nhân dân nơi ấy hạnh phúc mỹ măn, mỗi người
tin nhân quả đều có thể làm
được. Ông ta nói: “Ai nấy không tin
nhân quả, đó là đạo khiến cho thiên hạ đại loạn”. Hiện thời thiên hạ đại
loạn, v́ sao? Mọi
người không tin nhân quả. V́ sao không tin nhân quả? Chẳng có Đệ
Tử Quy, cũng có nghĩa là quy củ làm người chẳng có, tiêu chuẩn làm người chẳng có. Nếu con người rời khỏi tiêu chuẩn làm người, cổ nhân nói rất hay, con người và cầm thú có khác ǵ nhau? Sở dĩ, con người khác cầm thú ở chỗ con người biết lễ, con người hiểu lễ. Đệ Tử Quy thuộc loại lễ giáo, nên nó là căn
bản. Nếu chúng ta muốn học giáo dục nhân quả, trước hết phải làm người cho tốt, điều này rất trọng yếu, sau đó mới có thể thực hiện giáo dục nhân quả. Vun bồi hai căn bản ấy, Thập Thiện Nghiệp Đạo của nhà Phật cũng rất dễ thực hiện, chẳng khó khăn tí nào. Đó là giáo dục truyền thống mấy ngàn năm của Trung Quốc, căn bản to lớn. V́ thế, chúng ta phải đặc biệt coi trọng.
Trăm ngàn tam-muội, vô
lượng tam-muội,
đều sanh từ căn bản này! Nếu chẳng có căn bản này, quyết định chẳng đạt được tam-muội, cũng tức là chúng ta không đạt được sự hưởng
thụ chánh
đáng, đúng mực. Học
Nho th́ sự hưởng thụ chánh đáng, đúng mực là “bất diệc duyệt hồ”
(cũng chẳng vui sao), kẻ ấy sung sướng. Sự hưởng thụ chánh đáng, đúng mực
trong Phật pháp là “thường
sanh tâm hoan
hỷ, pháp hỷ sung măn”. Sự hưởng thụ ấy chẳng liên can ǵ đến địa
vị và của cải. Người học Phật dẫu nghèo hèn, chẳng được phú quư, cũng vẫn vui sướng, pháp hỷ sung măn giống như Bồ Tát. Giống như thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, quư vị thấy trong Tăng đoàn, trong kinh
chúng ta thường thấy Thường Tùy Chúng của đức Thế Tôn là một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, mỗi ngày ra ngoài khất thực, nghỉ dưới gốc cây, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, nh́n vào bất cứ ai đều thấy
vẻ mặt họ tươi cười, trên thân chẳng có thứ ǵ, nhưng họ sung sướng khôn sánh. V́ sao sung sướng, hạnh phúc như vậy? Họ
đắc tam-muội,
đạo lư ở chỗ này, người đắc tam-muội hưởng thụ chánh đáng. Người b́nh phàm chúng ta hưởng thụ chẳng chánh đáng, đúng mực, người b́nh
phàm th́ sao? Có năm loại Thọ, tức là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, những cảm thụ ấy đều chẳng b́nh
thường. Thân có khổ, lạc, tâm có ưu, hỷ, nên không chánh đáng, đúng mực. Thân chẳng có khổ, lạc, tâm chẳng có
ưu, hỷ, tâm thanh tịnh hiện tiền, đó là chân lạc. Do vậy, đức Phật nói lục đạo phàm phu có năm thứ Thọ, là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Xả Thọ khá lắm, Xả Thọ là khi nào? Trong một thời gian ngắn ngủi, thân chẳng có khổ hay lạc, tâm chẳng có
ưu, hỷ, tốt lắm! Đó là Chánh Thọ. V́ sao nó chẳng thể được coi là Chánh Thọ? V́ thời gian quá ngắn; chẳng giống như người thật sự tu hành, vĩnh viễn giữ được Xả Thọ, chẳng bị mất đi. Xả Thọ là tam-muội.
Do vậy đối
với sự tu hành, mấu chốt tu hành là ǵ? Nguyên lư và nguyên tắc trọng yếu nhất trong tu hành là ǵ? Là buông xuống. Bắt đầu từ chấp
trước, buông chấp
trước xuống, đối với hết thảy người, sự, vật, chẳng c̣n chấp
trước, quư vị sẽ hết sức sung sướng, đắc thanh tịnh tâm. Lại buông phân biệt xuống, không chỉ chẳng chấp
trước, mà ngay cả ư niệm phân biệt cũng chẳng dấy lên, đó là Bồ Tát, cao hơn A La Hán nhiều
lắm. V́ buông xuống thuộc về Định, Định th́ nhất
định là đến một lúc nào đó sẽ hoát nhiên đại ngộ, trí huệ mở mang, đó là giác. Giác là khai trí huệ, bèn thành Phật. Trí huệ đă khai, chẳng thấy mười pháp giới nữa, quư vị vượt thoát mười pháp giới, trụ
trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Thật ra, cơi Thật Báo của Phật là cơi Thật Báo của chính ḿnh; khi ấy, tự và tha bất nhị, chính ḿnh và Phật là một, chẳng hai. “Nhập pháp môn Bất
Nhị” như trong giáo pháp Đại Thừa thường chính là ư nghĩa này, quư vị chứng đắc pháp môn Bất Nhị. Pháp môn
Bất Nhị là quư vị thấy Pháp Thân, khẳng định, thừa nhận nó, chẳng có tí hoài nghi nào. Vạn sự
vạn pháp trong khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể, người ta thường gọi nó là “sanh mạng cộng đồng
Thể”. Thể ấy là ǵ? Trong Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư, Thể ấy được
gọi là “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Do vậy, học Phật hăy nên thường nghĩ tới Giới,
Định, Huệ, phải ghi nhớ những điều này trong tâm, niệm niệm
đều có thể tương
ứng với Giới,
Định, Huệ th́ chúng ta đang hành Bồ Tát
đạo.
“Nhất thiết cụ bị” (hết thảy chuẩn
bị đầy đủ), vô lượng tam-muội đă đầy đủ, vô lượng pháp môn đă đầy đủ th́ mới có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh. “Nhiên hậu năng tế chư bần
giả” (sau đấy mới có thể giúp các người nghèo), dạy hết
thảy chúng sanh vĩnh
viễn thoát ly lục
đạo luân hồi, thoát khỏi nỗi khổ trong lục đạo, vĩnh viễn thoát ly mười pháp
giới. Trong đại vũ trụ, nhà Phật nói khắp pháp
giới hư không giới, nơi nào thù thắng nhất? Hết thảy chư Phật khác miệng cùng lời bảo: “Thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật”. Chẳng phải riêng một ḿnh Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu, quư vị thấy bản kinh Di Đà chúng ta thường đọc là bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập, [trong ấy] sáu phương Phật khuyên dạy chúng ta. Trong kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, mười phương chư Phật khuyên chúng ta văng sanh. Phật
quyết định chẳng nói dối, Phật mong mỏi chúng ta, Ngài chỉ có một mong mỏi là mong ước chúng sanh mau chóng thành Phật. Đó là bổn nguyện của chư Phật Như Lai. V́ sao? V́ hết thảy chúng sanh và các Ngài là một Thể, chúng sanh thành Phật là công đức của các Ngài viên măn. Chúng sanh c̣n chưa thành Phật th́ công đức của các Ngài c̣n có phần khiếm khuyết, đạo lư là như vậy đó. Chúng ta cũng hết sức khó có, đă hiểu rơ ràng, minh bạch, bèn hạ quyết tâm nhất
định phải thành tựu trong một đời này. Thoát ly biển khổ tam giới
lục đạo, đó là thật sự thoát khỏi nghèo khổ, sanh về thế giới
Cực Lạc bèn đắc đại phú quư.
Tiếp đó, lại nói: “Hựu như
dục trị chư bệnh” (Lại như muốn chữa các bệnh), chúng ta mong chữa trị rất nhiều thứ bệnh khổ trong thế gian, người bệnh rất đáng thương, “đương
bị chủng chủng
chúng dược”, [nghĩa là] chúng ta nên chuẩn bị đầy đủ các món dược phẩm. Trong Trung Y, sử dụng dược vật đại khái hơn một vạn thứ. Trong hơn một vạn thứ, tám mươi phần trăm là thảo dược, tức thực vật. Động vật và khoáng vật cũng đều có, nhưng số lượng ít hơn, dược thảo chiếm
tuyệt đại đa số, có thể
trị hết thảy bệnh. Nói tới chỗ này, hiện thời rất nhiều
người tin tưởng Tây Y. Thuở c̣n trẻ, chúng tôi cũng vậy, đau ốm toàn là chữa trị theo Tây Y trong bệnh viện. Tôi theo thầy Phương học Triết Học, thầy nói tới văn hóa truyền thống của Trung Quốc. Có một hôm nói đến y thuật, thầy bảo: “Trung Y có năm ngàn năm lịch sử”. Thật vậy, chẳng giả, từ lúc vua Thần Nông nếm trăm loại cỏ, đúng là năm ngàn năm, từ Hoàng Đế
đến thời đại chúng ta là bốn
ngàn năm trăm năm. Từ Thần Nông đến Hoàng Đế là năm trăm năm, đúng là năm ngàn năm lịch sử. Chúng tôi tin tưởng trước thời Hoàng Đế đă
có Trung Y, con người biết dược thảo có thể
chữa bệnh, chúng tôi có lư do để tin tưởng
chuyện này. Trước thời Thần Nông là Phục Hy Thị, Phục Hy cách Thần Nông tối thiểu cũng hơn năm trăm năm, coi như là nguyên khởi của lịch sử Trung Quốc, ít nhất là từ năm ngàn năm trăm năm trở lên. Xa xưa hơn nữa là truyền
thuyết, có lịch sử dài như thế, có trí huệ, phương
pháp, kinh nghiệm và hiệu quả chữa trị. Thầy nói Tây Y chỉ có ba trăm năm, từ Đệ Nhị Thế Chiến phát minh nền Tây Y chữa trị bằng chất kháng sinh. V́ thế, thầy hỏi tôi: “Anh tin tưởng ba trăm năm, hay tin tưởng năm ngàn năm?” Đương nhiên chúng tôi tin tưởng năm ngàn năm, lịch sử quá phong phú. Hiện thời, quư vị đọc tin tức, thấy có báo cáo cho biết đă phát hiện loại virus mới, tên gọi của loại virus mới ấy tôi không nhớ, tất cả các chất kháng sinh đều vô hiệu đối
với nó. Tổ chức Y Tế Thế Giới cảnh cáo, mong chúng ta phải đặc biệt cẩn thận đề pḥng, v́ sao? Chưa có thuốc để chữa trị. Nếu bị lây nhiễm, đại khái chỉ chừng ba, bốn giờ là chết, rất nhanh. Đối với loại virus như vậy, Trung Y có phương pháp trị liệu hay không? Nay chúng ta vẫn chưa nghe thấy, nhưng chúng tôi có lư do để tin tưởng là có thể! Vấn đề là hiện thời Trung Y dần dần thất truyền, người học quá ít. Hơn nữa, ở Trung Quốc vào thời xưa, Trung Y luôn là đời đời truyền thừa, thầy lang tối thiểu là ba đời, [hành nghề Y] từ ba đời trở lên. Họ bắt đầu học Y từ lúc nào? Ba, bốn tuổi liền bắt đầu học, người già chữa bệnh, họ ở bên cạnh xem, có thể nhận biết huyệt đạo. Trẻ ba tuổi đă có thể chỉ huyệt
đạo rành mạch, họ hiểu biết; chẳng phải là học trong viện Y Học dăm bảy năm, chẳng
phải vậy! Trung Y là của báu, có thể
dưỡng sanh, có thể
trị bệnh, chúng ta hăy nên coi trọng nó. Đó là quốc bảo của Trung Hoa, nội dung rộng lớn, tinh tường, sâu xa. Chữa bệnh th́ phải chuẩn bị đầy đủ các món thuốc.
Chúng
ta thấy Thái
Thượng Lăo Quân của Đạo Giáo đă nói tới một trăm thứ bệnh, và cũng nhắc tới một trăm món thuốc. Chúng ta hăy xem những căn bệnh ấy, chúng ta có vướng phải hay không? Trước hết, nói tới một trăm thứ bệnh.
Thứ
nhất là “hỷ nộ vô
thường là một bệnh”, chúng ta có phạm phải hay không? Hỷ nộ vô thường, nếu phạm phải th́ phải có tánh cảnh giác, bệnh ấy là ǵ? Là nguyên do khiến chúng ta nhiễm
bệnh. Phàm là người ngă bệnh th́ là không b́nh thường, đúng mực, chẳng thể khống chế tâm t́nh. Bản thân chúng tôi đă chính mắt trông thấy một trường hợp:
Trong quá khứ, Hàn Quán Trưởng hộ tŕ chúng tôi ba mươi năm, con gái bà ta hai mươi tám tuổi qua đời, để lại hai đứa con thơ. Nửa năm trước khi bà qua đời bèn hỷ nộ vô thường; trước kia, bà ta chẳng như vậy. Do vậy bèn nói đây là điềm báo bệnh tật nẩy sanh, tỏ lộ tâm t́nh đặc biệt
nóng nảy, bộp chộp. Nếu chúng ta có t́nh h́nh ấy, cần phải đi khám
sức khỏe. Người học Phật phải nên b́nh lặng, nên niệm Phật hiệu cho nhiều, lạy Phật cho nhiều ḥng tiêu nghiệp chướng.
Thứ hai, “quên nghĩa hám
lợi là một bệnh”, lợi là thứ con người hiện thời ắt phải tranh giành. Không chỉ chớ nên tranh, mà c̣n phải suy nghĩ ta có nên giữ lấy [món lợi đó] hay không? Nếu đáng nên được th́ có thể lấy, chẳng đáng nên được th́ đừng nên lấy! V́ sao? Nếu quư vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ biết. Trong Liễu Phàm Tứ Huấn có nói, trong cuộc đời của bất cứ một ai, “một miếng ăn, một
hớp uống, không ǵ chẳng được định
sẵn”. Nói cách khác, trong mạng quư vị có, chắc chắn quư vị sẽ đạt được, chỉ là thời gian có sớm hay muộn khác nhau. Trong mạng chẳng có, quư vị nghĩ trọn mọi phương cách, vẫn chẳng cầu được. Nếu cầu được, quư vị chẳng ngă bệnh th́ cũng có tai nạn xảy đến. Nói cách khác, quư vị chẳng có cách nào hưởng
thụ, do chẳng có số mạng ấy! Những chuyện này đều bày ra trước mặt chúng ta, nếu chư vị chú tâm quan sát sẽ hoảng nhiên đại ngộ. Lúc tôi mới xuất gia, tôi vừa xuất gia bèn bắt đầu giảng kinh. Ở Đài Bắc có một người cũng có thể coi như là bậc đại phú trưởng giả, nay ta gọi là “xí nghiệp gia”, cất một ṭa biệt thự lộng lẫy tại núi Dương Minh, dựng một căn biệt thự, tôi từng ở nơi đó một ngày, [v́] người thân thích của ông ta dẫn tôi đi chơi, nên ở đó một ngày. Sau này, tôi nghe nói, vị xí nghiệp gia ấy qua đời, qua đời khi tuổi đă rất cao, nghe nói suốt đời ông ta cũng chỉ ở trong ṭa biệt thự ấy một tối. B́nh thường
cũng chẳng có ai đến, họ dùng ba người đầy tớ trông nom ṭa biệt thự, quét dọn sạch sẽ, ba người
ấy hưởng phước ở đó, sống nhiều năm ở đó. Quư vị thấy: Suốt đời ông ta chỉ ở một hôm, quyền sở hữu tài sản thuộc về ông ta, nhưng quư vị thấy ông ta chẳng có cách nào hưởng phước! Ba người hầu có quyền sử dụng, họ
hưởng phước, đó là do mạng vận đă định. Chuyện như vậy có thể thấy khắp mọi nơi trên cả thế giới.
Cổ nhân nói rất hay: “Cả
đời đều là mạng, nửa
điểm chẳng do người”. Cần ǵ [phải khổ sở như vậy]? Quư vị là một cá nhân, toàn là do tham dục, dục vọng
[chi phối], xây một ṭa biệt thự to như vậy, nhưng chẳng có thời gian để hưởng thụ, suốt đời chỉ ở có một ngày! Tôi tin tưởng
c̣n có những người suốt cả một đời cũng chưa ở một ngày, sao mà khổ thế? Sao không dùng món tiền đó để làm một ít chuyện tốt, giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn, họ chẳng nghĩ tới điều này. Công đức giúp chúng sanh khổ nạn có thể mang đi được, chứ ṭa biệt thự ấy đâu thể mang theo! Đức Phật có trí huệ, thường xuyên cảnh tỉnh chúng ta, chuyện có thể mang theo được th́ làm nhiều, chuyện chẳng mang theo được, chẳng cần làm! Do vậy, chúng ta hăy nghĩ, điều ǵ có thể mang theo, điều ǵ chẳng mang đi được. Trong thế giới hiện thời, chuyện tốt đẹp bậc nhất là ǵ? Chuyện
tốt ǵ vậy? Dạy hết thảy
chúng sanh làm người tốt, đấy mới là chuyện tốt lành to lớn nhất. Thích Ca Mâu Ni Phật thực hiện suốt đời, kể từ sau khi Ngài khai ngộ liền giảng kinh, dạy học, khuyên người khác không chỉ làm người tốt, mà c̣n là người tốt nhất trong những người
tốt, làm Phật, làm Bồ Tát. Đức Phật là người tốt đạt đến rốt ráo viên măn, chẳng có khiếm khuyết. Bồ Tát là hữu t́nh chúng sanh giác ngộ, tuy phiền năo tập khí c̣n chưa đoạn sạch, nhưng giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng
nhiễm, Ngài làm được. Do vậy, chúng ta phải lấy Phật Thích Ca làm gương, đối
với chuyện lấy - bỏ, nhất
định phải chú tâm cẩn thận, [xét coi] có hợp với đạo nghĩa hay không? Nói thông thường, “nghĩa” là hợp t́nh, hợp lư,
hợp pháp, điều ấy có thể giữ lấy. Nếu trái nghịch t́nh, lư, pháp, chớ nên giữ lấy. Bất cứ chuyện ǵ hễ có nhân ắt có
quả, chúng ta hăy cẩn thận nơi nhân, quả báo liền thù thắng, tránh khỏi khổ quả!
“Háo sắc, hoại
đức là một bệnh”, bệnh này hết sức phổ biến trong xă hội hiện thời. Con người không hiểu, Thái
Thượng Lăo Quân coi trọng nhân quả. Quư vị thấy trong ba căn bản của chúng ta, có Thái Thượng Lăo Quân Cảm Ứng Thiên, câu đầu tiên đă nói rất hay: “Họa phước không có
cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy”. Không ai cai quản quư vị, mà do chính quư vị tự ḿnh cảm lấy quả báo, thiện nhân, thiện quả, ác nhân, ác báo, nhân duyên quả báo chẳng sai sót mảy may, bất luận
kẻ nào trong một đời đều chẳng thể tránh khỏi! Trong xă hội hiện thời, quan hệ nam nữ rất hỗn loạn,
mỗi ngày có bao nhiêu kẻ phá thai? Phá thai là sát nhân. Luật nhân quả thường cảnh tỉnh chúng ta, đó là chuyện thật! Thiếu mạng phải đền mạng, thiếu nợ phải đền tiền. Đức Phật dạy cha con có bốn thứ duyên; chẳng có duyên, quư vị sẽ chẳng trở thành cha con, sẽ chẳng trở thành người một nhà. Trong bốn thứ duyên ấy, thứ nhất là báo ân. Đứa con này ngoan ngoăn, dễ dạy, hiếu tử
hiền tôn là nó đến báo ân. Trong đời quá khứ, quư vị có ân đối với nó. Loại thứ hai là báo oán, kiếp
trước có hiềm khích, có oán hận, kẻ ấy đến báo cừu, lớn lên sẽ khiến cho quư vị tan cửa, nát nhà. Loại thứ ba là đ̣i nợ, đ̣i xong bèn ra đi. Loại thứ tư là trả nợ. Chẳng có những duyên ấy, sẽ không trở thành người một nhà. Trong kinh, đức Phật đă dạy rơ chuyện này, người một nhà có quan hệ ǵ. V́ thế, gia đ́nh phải có đạo, phải có quy củ. Nếu chẳng có đạo, chẳng có quy củ, gia đ́nh ấy bèn rối loạn.
Phá thai đáng sợ lắm! Tôi nghe một đồng tu kể, không phải là người ấy, mà là một người khác. Người ấy có một người bạn dường như đă phá thai hơn hai mươi lượt. Có người thông linh thấy theo sau cô ta là một bầy tiểu quỷ; v́ thế, bản thân cô ta khổ chẳng thể nói nổi, thân thể hết sức tệ, bệnh tật rất nhiều. Bệnh tật là ǵ vậy? Bệnh tật là do oán thân trái chủ gây rối cô ta. Do vậy, người hiểu nhân quả quyết định chẳng dám làm chuyện này, v́ sao? Tương lai
phải đền mạng! Quư vị đời này giết một người, đời sau phải đền mạng cho kẻ ấy. Quư vị giết hại [hơn] hai mươi người, phải đền hơn hai mươi cái mạng! Chẳng phải là giỡn chơi đâu nhé! V́ thế, chuyện sát hại tánh mạng há có nên làm? Háo sắc, phá thai chính là sát nhân, tội ấy nặng lắm! Không chỉ là bại hoại đức hạnh, con người hiện thời chẳng nói đến đạo
đức, nhưng hiểu theo lẽ nhân quả th́ phải đền mạng, quư vị có dám làm hay không? Đó là bệnh. Chúng ta thấy chứng bệnh ấy, thân thể suy bại, đau khổ khôn kham, nhưng chính cô ta chẳng biết nguyên nhân, người mắt sáng thấy rơ ràng, rành rẽ.
“Chuyên tâm yêu
thương mê mệt là một bệnh”, nay chúng ta gọi “chuyên tâm yêu thương mê mệt” là “sủng ái”. Quư vị sủng ái một ai th́ người ta thường nói là “thiên vị”. Nếu trong một gia đ́nh, quư vị yêu thương một ai đó quá lẽ, kẻ khác có phục hay không?
Khiến cho người khác ganh tỵ, thậm chí khiến cho kẻ khác báo thù, phiền năo liền xảy đến. V́ thế, chuyện này rất đáng sợ.
“Thù ghét, mong cho kẻ khác chết đi là một bệnh”. Oán hận kẻ ấy, không ưa, mong cho kẻ ấy chết ngay lập tức. Điều này thuộc loại oán hận, thuộc loại nguyền rủa, tự nhiên kết thù chuốc oán. Cổ thánh tiên hiền khuyên dạy chúng ta, người trong thế gian oan gia
hăy nên cởi gỡ, đừng nên trói buộc. Oán th́ phải nghĩ cách hóa giải, chớ nên kết oán. V́ sao? Sau khi oán đă kết, sẽ oan oan tương báo chẳng xong! Đời này là oan gia, đời sau có thể là oán cừu càng sâu, quư vị nói có phải là phiền phức lắm không? Đôi bên đều đau khổ. Do vậy, sau khi
giác ngộ, hăy nên buông xuống, đôi bên chỉ cần một bên giác ngộ, mối oán cừu ấy liền hóa giải. Bên giác ngộ luôn nghĩ đủ mọi cách để hóa giải, hoặc
là trên phương diện vật chất, hoặc trên phương diện tinh thần, bồi hoàn, bù đắp, chẳng c̣n kết oán nữa, điều này rất quan trọng. Chẳng hạn như kẻ khác hủy báng, lăng nhục, thậm chí hăm hại chúng ta, chúng ta gặp phải những chuyện ấy, trong tâm phải giác ngộ, v́ sao họ chẳng đối xử với kẻ khác như vậy, mà làm như thế đối với ta? Người học Phật chúng ta hiểu rơ, nhất định là trong đời quá khứ, ta có lỗi với kẻ ấy. Nay kẻ ấy đối đăi ta như vậy, ta cam tâm t́nh nguyện nhận lănh, chẳng có tâm báo thù, chẳng có tâm oán hận, vậy là tốt, tiêu trừ nghiệp
chướng của chính ḿnh. Chúng ta chẳng có oán hận, chẳng báo thù, đối phương dần dần cũng nhạt bớt. Chúng ta thấy đối phương có những ưu điểm bèn tán thán họ; đối phương có khuyết điểm, chúng ta chẳng phê b́nh, một mực dùng thiện ư để đáp trả, thời
gian lâu sau, mối oán kết ấy bị hóa giải. Quyết định đừng nên báo thù, quyết
định chớ nên oán hận, phiền phức rất
lớn, chẳng thể giải quyết vấn đề, mà c̣n tạo ra tranh chấp, gieo gốc họa đời đời kiếp kiếp, sai lầm quá đỗi! Chính ḿnh bồi dưỡng những đức hạnh ấy bằng
cách nào? Đọc sánh thánh hiền, đọc sách Phật, quư vị đọc nhiều sẽ có trí huệ, biết nên xử sự ra sao. Bồ Tát có trí huệ và đức hạnh như vậy th́ mới có thể trong một đời hoàn
toàn xóa tan, hóa giải [nỗi bất b́nh của] oán thân trái chủ từ trong vô lượng kiếp. Bồ Tát sanh tâm đại từ bi, giống như chư Phật Như Lai bỏ ḿnh v́ người, thành tựu hết thảy chúng sanh, nêu gương tốt cho hết thảy chúng sanh, giúp đỡ người khác phá mê khai ngộ, ĺa khổ được
vui, đó là trí huệ hạnh.
“Tham dục phóng túng, ẩn giấu lỗi
lầm là một
bệnh”, tham dục đă là lầm lỗi, lại c̣n phóng túng th́ c̣n ǵ để nói nữa? Tham lam không bờ bến, càng bị hăm sâu hơn. Có lỗi phải sám hối, phải sửa đổi, không
thể che giấu. “Tế” (蔽) là che giấu. Che giấu lỗi lầm chẳng cho người khác biết, đó là bệnh. Quư vị càng tích lũy càng sâu hơn, đầu tiên là lỗi nhỏ, dần dần biến thành lỗi to, sai mất rồi! Ta có lầm lỗi, kẻ khác phê b́nh, đó là chuyện tốt, v́ sao? Báo đền xong! Nay đă báo đền xong xuôi, chúng ta phải sanh tâm cảm tạ kẻ phê b́nh, đó là đúng. Nếu oán hận, sẽ có phiền phức to lớn, đến đời sau giải quyết chưa xong. Chỗ tốt đẹp lớn nhất trong học Phật là tánh cảnh giác cao, có tầm nh́n xa, chẳng phải chỉ nh́n một đời này, mà càng phải thấy đời sau và những đời sau đó nữa, biết nhân
quả, biết họa phước v́ sao mà có!
“Chê người, khen ḿnh là một bệnh”, chuyện này cũng thường nẩy sanh. Quan trọng nhất là bản thân chúng ta có phạm hay không? Có hủy báng kẻ khác hay không? Có tán thán chính ḿnh hay không? Chính ḿnh có một chút tốt lành, cứ sợ kẻ khác chẳng biết đến. Trong Phật pháp, điều này được gọi là “tự tán, hủy tha” (khen ḿnh, chê người), ư nghĩa hoàn toàn tương đồng. Trong Bồ Tát Giới, “tự tán
hủy tha” là một trọng giới, đức Phật nghiêm khắc ngăn cấm, chẳng chấp thuận. Đối với người khác phải tán thán, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “lễ kính chư Phật, tán thán Như Lai”. Người khác
có ưu điểm, chúng ta phải tán thán. Người khác có khuyết điểm, có chỗ bất thiện, quyết
định đừng nên phê b́nh. Hễ có trách nhiệm khuyên răn bạn thân th́ phải làm khi nào? Khi chẳng có kẻ thứ ba trông thấy hoặc nghe thấy, bèn khuyên nhủ, chỉ dạy, khuyên lơn kẻ ấy sửa đổi, ăn năn hối lỗi. Lại c̣n khuyên dạy tối đa là hai lượt, chớ nên ba lượt; khuyên hai lần không nghe th́ đừng nói nữa. Nói nữa sẽ biến thành oán cừu,
điều này rất quan trọng. Hễ [kẻ ấy] hoan hỷ nghe người khác khuyến cáo, sau khi nghe, có thể thật sự sửa đổi, quư vị hăy nên khéo chiếu cố người ấy, phải thường xuyên khuyên răn kẻ ấy, ngơ hầu kẻ ấy có thể trở thành thánh, thành hiền. Kẻ bị người khác phê b́nh, trong tâm bực bội th́ chớ nên nói nữa, chẳng cần kết oán cừu với kẻ ấy, đó là đạo nghĩa
bạn bè. Giữa các bạn học [là như thế], mà giữa thầy tṛ cũng là như thế. Thuở trước, tôi theo thầy Lư học Giáo, các bạn học của chúng tôi trong lớp kinh giáo đều là học tập kinh giáo, hơn hai mươi người học giảng kinh. Có mấy bạn học
dường như từ trước đến nay thầy chưa hề tươi cười với họ, có đánh, có chửi. Học tṛ giỏi có thể tiếp nhận đánh chửi mà vẫn cảm tạ thầy, cảm ơn thầy, thầy thật sự dạy bảo. C̣n có hai ba vị đồng học, thầy đối xử với họ rất tốt, chẳng bao giờ nói này nói nọ, do nguyên nhân ǵ? Lần đầu tiên thầy phê b́nh họ, vẻ mặt họ rất khó coi, rất bực bội, từ đó về sau, thầy chẳng phê b́nh họ nữa, xem họ như học tṛ dự thính, hoan nghênh quư vị đến nghe, tuyệt đối chẳng phê b́nh quư vị. Thuở ấy, chúng tôi tuổi trẻ, trong tâm nghi hoặc thầy đối đăi đồng học chúng tôi chẳng công bằng, một thời gian lâu sau, thầy cũng nh́n ra. Có một hôm, thầy gọi tôi vào pḥng, nói rơ v́ sao có những người thầy giáo huấn nghiêm ngặt, khắt khe: “Những người ấy có thể tiếp nhận, nếu tôi không dạy họ như vậy, tức là có lỗi với họ. V́ sao có mấy đồng học chẳng thể nói, chưa bao giờ nói động tới họ? Họ chẳng thể tiếp nhận, cần ǵ phải kết oán cừu?” Tôi mới hiểu rơ. Trong khi giáo học, thầy cũng dạy tôi cách làm người như thế nào. V́ lẽ đó, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta xử sự, đăi người, tiếp vật đều phải có chừng mực.
Điều tiếp theo, “tự tiện
thay đổi là một bệnh”, vấn đề này cũng hết sức nghiêm trọng! Cổ thánh tiên hiền đă lập ra quy củ, chính chúng ta sửa đổi, có phải gánh trách nhiệm nhân quả hay không? Khẳng định phải chịu. Cổ thánh tiên hiền đă lập ra những
phép tắc ấy, thường được các tôn giáo hiện thời gọi là “chân lư”, không thể thay đổi! Tám câu đầu trong Tam Tự Kinh chính là nguyên lư và nguyên tắc giáo học của tổ tiên và cổ thánh tiên hiền đối với người sau trong suốt mấy ngàn năm qua, có thể sửa đổi hay không? Hễ sửa đổi, toàn bộ các vấn đề sẽ xuất hiện. Tự tiện thay đổi là một căn bệnh nặng của người hiện thời. Nguyên tắc chỉ đạo giáo học cao nhất của cổ nhân là “quư dĩ chuyên” (chú trọng chuyên nhất), người hiện tại chẳng làm theo nguyên tắc ấy, học quá nhiều, học quá tạp. Đặc biệt là những vị làm phụ mẫu tuổi trẻ, chẳng có kinh nghiệm dạy dỗ trẻ thơ, tâm mong con trở thành kẻ tài năng quá mạnh, hy vọng con ḿnh có thể vượt trỗi kẻ khác, thứ ǵ cũng biết, thứ ǵ cũng học, đứa bé ấy rất đáng
thương, chẳng thể chịu đựng nổi, học hành rất đau khổ. Hiện thời, chúng ta thường nghe nói học tṛ Tiểu Học tự sát, trong quá khứ, chưa hề có chuyện này. V́ sao chúng tự sát? Chúng quá đáng thương, quá khổ! Đó là ǵ? Lỗi lầm của cha mẹ, không biết dạy con! Thời cổ, trẻ nhỏ đi học chỉ học một môn, “quư dĩ
chuyên” mà! Mấy ngàn năm qua đều là như vậy. Học một môn này chưa xong, chẳng thể học môn thứ hai. Nay th́ có thể học đồng
thời bảy, tám môn, thế th́ sao? Chẳng được
rồi!
Cổ nhân Trung Quốc học ǵ cũng là học một môn, học chu đáo một môn xong rồi mới có thể học môn thứ hai.
Chúng
tôi theo học kinh giáo trong lớp dạy kinh giáo của thầy Lư, thầy quy
định cũng là một môn, bảo rơ ràng cùng quư vị: “Các vị chắc chắn không thể học cùng lúc hai môn!” Nếu nói rất khó nghe th́ ư thầy
là: “Quư vị chắc chắn chẳng có sức học hai môn”. Thầy nói hết sức khẳng định. Một môn học tốt đẹp rồi, tốt đẹp đến mức độ nào? Phải được thầy công nhận, thầy nói “có thể” th́ mới được phép học môn thứ hai; nhưng tiêu chuẩn của thầy cũng trọn chẳng nghiêm ngặt lắm, mà cũng rất khoan dung.
Tiêu chuẩn của thầy là thí dụ như học một bộ kinh, quư vị có thể lên bục giảng, thầy ngồi dưới nghe, gật đầu, được lắm, coi như thông qua bộ kinh ấy. Nhưng lúc tôi theo thầy, tôi đặt tiêu chuẩn cho chính ḿnh nghiêm khắc hơn một chút. Tôi cảm thấy giảng một lần không đủ, tối thiểu phải giảng mười lần, tôi mới học bộ kinh thứ hai. Mười lần th́ đến giảng ở đâu? Đến nhà đồng học hoặc đồng tu. Thứ Hai đến nhà Trương cư sĩ, thứ Ba đến nhà Vương cư sĩ, thứ Tư đến nhà Lư cư sĩ. Đều là
giảng một thứ, tức là với mỗi bài học, mỗi tuần tôi t́m tối thiểu ba nhà hay bốn nhà [để tập giảng], cách giảng của tôi là như vậy.
Thính chúng một, hai, ba người
đều được, học giảng mà! Số lượt luyện giảng càng nhiều, càng thuần thục, quen tay
hay việc! Không quen th́ làm sao được? Do vậy tôi nói “một lần không được”, tôi đặt tiêu chuẩn cho chính ḿnh, tôi nói “mười lượt”. Kinh
Vô Lượng Thọ tôi đă giảng mười lần, lần này đặc biệt chọn giảng chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, chúng ta cùng nhau học tập, cùng nhau chia sẻ.
Do vậy, quư vị tuân thủ quy củ của cổ thánh tiên
hiền định, nhất định có lợi. Nếu quư vị sửa đổi, chắc chắn sẽ nẩy sanh phiền phức. Quư vị thấy tại Trung
Quốc mấy ngàn năm qua, chẳng có ai dám sửa đổi. Tổ tiên định ra điều ǵ? Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, chẳng nhiều lắm. Giáo dục thời cổ nhằm dạy ǵ? Dạy bốn thứ ấy. Bốn thứ ấy nhằm dạy tiêu chuẩn giáo dục làm người. Đều có thể làm
được th́ quư vị mới giống như con người. Ngũ Luân là nói về quan hệ giữa con người với nhau, điều này rất
trọng yếu, chớ nên không biết! Cha con có t́nh thân, vua tôi có nghĩa, vợ chồng sai khác ([có nghĩa là] nhiệm vụ khác nhau), lớn nhỏ có tôn ty trật tự, bạn bè giữ chữ tín. Cốt lơi của nền giáo dục Trung Quốc là cha con có t́nh thân, tức là thân ái. V́ thế, giáo dục Trung Quốc nhằm giáo dục t́nh thân ái. Những thứ sau đó như Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức đều là t́nh thân ái mở rộng, từ ḷng thân ái khuếch trương, cốt lơi là t́nh thân ái. Ngũ Thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân là yêu thương con người. Nghĩa là tuân theo lư, tức hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp. Lễ là chừng mực, xử sự, đăi người, tiếp vật đều phải có
chừng mực, chớ nên quá lố, mà cũng chớ nên quá băi buôi, nhất định phải là chừng mực. Cư xử giữa con người với nhau chớ nên vô lễ. Trí là lư trí, không thể
xử sự theo cảm t́nh! Trong cuộc sống, công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật phải dùng lư trí, đừng dùng cảm t́nh. Phải nói đến tín nhiệm. Con người thiếu chữ tín, sẽ chẳng thể tồn tại trong xă hội. Chữ Tín hết sức quan trọng. Tứ Duy là lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Bát Đức là
hiếu, đễ, trung, tín, nhân, ái, ḥa, b́nh. Cương lănh là như vậy,
do tổ tiên đặt ra, chẳng thể thay đổi. Hễ biến đổi, toàn thể trật tự xă hội rối loạn, nhà chẳng ra nhà, nước chẳng ra nước. Quy củ của tổ tiên được thi hành tại Trung Quốc suốt mấy ngàn năm. Thái
Thượng Lăo Quân nói tới một trăm chứng bệnh, chúng tôi chỉ nêu mấy điều này là đủ rồi!
Lại xem Ngài nói về thuốc chữa, đối với điều đầu tiên, Ngài nói: “Thể nhược, tánh nhu là một loại thuốc”, chẳng phải là Thái Thượng Lăo Quân bảo thân thể chúng ta phải suy
nhược, chẳng phải là ư nghĩa đó! “Nhược”
là đối diện với cái ǵ mạnh mẽ, nếu chúng ta biểu hiện rất kiên
cường sẽ không tốt, đấy cũng là như hiện thời chúng ta nói “ḥa hài”, tánh t́nh phải mềm mỏng. Nói thật ra, trong Phật pháp, quư vị đọc phần Tứ Đức được giảng trong Hoàn Nguyên Quán, điều thứ ba là “nhu ḥa, chất trực”. “Thể
nhược” nghĩa là chất trực, đăi người, tiếp vật phải mềm mỏng. Chất trực là chân thành, phải có thành ư đối
với người khác. Chớ nên dùng thái độ cường bạo để đối xử với người khác, phải dùng thái độ mềm mỏng khiến cho người khác hoan hỷ. Nói theo cách bây giờ, trong tư thế xử sự, đăi người, tiếp vật, chúng ta phải biết hạ ḿnh một chút, “nhược”
có ư nghĩa như vậy.
Chớ nên dùng ngôn ngữ cứng cỏi, đụng chạm, ra lệnh, khiến người ta
nghe rất ngứa tai! Dẫu là thuộc hạ của chính ḿnh, nếu quư vị có thể khiêm hư, người khác sẽ thực hiện công việc tốt đẹp hơn. Kỵ nhất là lớn tiếng la lối, chẳng tốt! Người khác ngoài mặt phục tùng quư vị, trong tâm
không phục. Nếu quư vị có thể khiến cho trong tâm người ta cảm phục quư vị, đó gọi là “tâm phục, khẩu phục”,
sẽ thành công!
“Hành vi phải khoan dung, tâm ḥa hoăn là một loại
thuốc”. Nói thật ra, loại thuốc này đối
với chúng ta sẽ hữu ích trong việc tu thân. Tu thân, dưỡng tánh, thân tâm khỏe mạnh, gia đ́nh ḥa thuận,
sự nghiệp thuận lợi. Loại thuốc này đều có thể giúp quư vị, xă hội ḥa hài, thế giới
ḥa b́nh, nó rất tốt. “Hành” phải khoan, tức là khoan hậu, “hành” là hành vi, phải khoan hồng, độ lượng, tâm phải ḥa hài, đó gọi là “ḥa b́nh”. B́nh đẳng th́ mới ḥa, b́nh là nhân, ḥa là quả. Đối đăi với kẻ khác chẳng b́nh đẳng, chắc chắn chẳng thể đạt được ḥa.
“Động tĩnh
hữu lễ là một loại thuốc”. Lễ hết sức trọng yếu. Có lễ, người khác tôn kính, kính mến quư vị, thật sự đạt được lợi ích, người được lợi là chính ḿnh.
“Sống theo
nề nếp là một loại thuốc”: Cuộc sống có quy luật là một loại thuốc, đó là đường
lối để sống lâu, khỏe mạnh.
“Gần
đức, xa rời
sắc là một loại thuốc”, thân cận người có đức
hạnh, tránh xa sắc. Nam đối
với nữ phải xa cách một chút, nữ đối với nam cũng phải xa cách một chút, đó là Thuốc.
“Trừ khử dục tâm là một loại
thuốc”. Dục là dục vọng. Mọi người đều có dục vọng. Nếu chẳng có dục vọng, quư vị chẳng sanh trong nhân gian. Trong Phật pháp, gọi cơi nhân gian là Dục Giới; do vậy, kẻ chẳng có dục sẽ chẳng đến Dục Giới, họ tới Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Đối với dục th́ nên như thế nào? Càng nhạt bớt càng tốt. Dục vọng trọng yếu của con người là cuộc sống. Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta mà biểu
diễn, ngày
ăn một bữa, tối nghỉ dưới cội cây, đúng là giảm dục vọng
đến mức độ thấp nhất, vâng giữ bất động, suốt đời chẳng thay đổi. Giảng kinh, giáo học bốn mươi chín năm, bảy
mươi chín tuổi viên tịch trong rừng, chẳng phải là trong nhà, quây quần, bầu bạn với thiên nhiên.
“Lúc
phân
chia bèn nhường nhịn ḥng tăng trưởng
đạo nghĩa
là một loại
thuốc”, hay lắm! Đặc biệt là đối với tài vật, khi phân chia tài vật, hăy nên lùi bước, nhượng bộ, chẳng cần phải tranh giành. Hiện thời, chúng ta thấy rất nhiều người già cả qua đời, con cái đông đảo, anh em, chị em chia chác gia tài thường lôi nhau ra ṭa, đó là bất nghĩa,
lẽ nào chẳng có lỗi đối
với người già? Người già nếu trông thấy t́nh cảnh ấy, lẽ đâu chẳng đau ḷng? Cổ nhân từ nhỏ đă hưởng sự giáo dục tốt đẹp, giáo dục luân lư, giáo dục
đạo đức, giáo dục nhân quả, khi chia gia tài ai nấy đều khiêm nhượng, đều mong người khác
được nhiều hơn một chút, chính ḿnh được ít hơn một chút. Tuy ở riêng, vẫn là thân t́nh, vĩnh viễn đoàn kết với nhau, tốt đẹp thay! Do vậy, cổ nhân khi phân chia tài sản chẳng tham tài, cốt sao cho anh
chị em ruột thịt của ḿnh đều được chăm sóc tốt đẹp.
Ai có năng lực mạnh mẽ th́ tài sản chia phần ít một chút, họ có năng lực làm việc mà! Kẻ năng lực kém cỏi th́ mong chia cho họ nhiều hơn một chút. Họ có đạo nghĩa, có tâm yêu thương, chiếu cố lẫn nhau, đó là đúng.
“Chẳng lấy thứ ǵ phi phận là một
loại thuốc”, “phi phận” là ǵ? Thứ ǵ chẳng nên lấy th́ quyết định chớ nên lấy. Tiền tài phi phận cũng gọi là “tiền tài bất nghĩa”. Nếu quư vị tham lam những thứ ấy th́ sẽ gặp tai nạn, trước mắt chẳng thấy tai
nạn, nhưng đă gieo gốc họa. Nói theo luật nhân quả, hiện thời do quư vị có phước, nên tuy đă gieo những nhân ác ấy, nhưng chẳng có quả báo trong hiện tiền. Đợi đến khi quư vị hưởng hết phước, tai nạn
liền hiện tiền. Nói thật ra, ai nấy đều có oán thân trái chủ, oán thân trái chủ do đâu mà có? Kết từ trong đời quá khứ, nay chúng ta chẳng nhớ, họ chẳng bỏ đi, cứ theo sau ta. Đối với những tạo tác trong một đời, Phật pháp đă cảnh cáo rất nhiều, rất nghiêm trọng! Quư vị ăn người khác tám lượng, trong tương lai phải đền trả nửa cân. Chúng ta ăn
thịt, chẳng thể không gánh trách nhiệm nhân quả, nhất là chính ḿnh giết chóc. Động vật bị giết cũng là
một cái mạng, nó có cam tâm t́nh nguyện cúng dường thịt nó cho quư vị hay chăng? Chẳng có chuyện cam tâm t́nh nguyện! Nếu chẳng cam tâm, chẳng t́nh nguyện, nó có thể nào chẳng có tâm báo thù ư? Chúng tôi đă từng thấy, thuở bé, tôi sống ở nông thôn. Nhà nông nuôi dưỡng gia súc, nuôi gà, nuôi lợn là con vật thông thường nhất. Quư vị thấy tết đến giết gà, gà có t́nh nguyện hay không? Nó chạy lung tung, chạy trối chết! Khi giết lợn, quư vị nói xem có phải là tiếng lợn rú rất thảm thiết, rất đáng thương! Đó là ǵ? Chẳng hiểu nhân quả báo ứng, làm những chuyện xuẩn ngốc. Đức Phật biết chúng sanh chẳng bỏ ăn thịt được; v́ thế, khuyên kẻ khác hăy ăn ba thứ tịnh nhục, đó là chuyện bất đắc dĩ! Tam tịnh nhục nghĩa là ǵ? Chẳng thấy giết, tức là khi con lợn ấy bị giết, ta chẳng trông thấy, cũng chẳng nghe tiếng nó kêu, thứ ba là chẳng
phải v́ ta mà giết. Đó là tam tịnh nhục. Chúng ta ra chợ mua về, đều thuộc loại tam tịnh nhục, trọn chẳng [do chính ta, hay ta sai người khác] giết mổ. Thời cổ, người đọc sách ở Trung Quốc thường nói: “Văn
kỳ thanh, bất nhẫn thực kỳ nhục”, tức là khi nghe nó bị giết, nghe âm thanh kêu gào thê thảm của nó, nỡ ḷng nào làm thịt nó? V́ thế, “chẳng
lấy thứ ǵ quá phận là một món thuốc”. Đó là điều nên làm, đối với tài vật trái phận đều chớ nên tùy tiện chiếm hữu, cho đến khống chế, đều chớ nên!
Câu
tiếp theo là “tuy ghét nhưng vẫn thương yêu là
một loại thuốc”.
Tuy ghét kẻ ấy, chán ngán họ, nhưng vẫn yêu thương kẻ ấy, đó là tâm từ bi, tâm thương xót. Một người chẳng được người khác ưa thích th́ trong ấy có nhiều nhân tố, quan trọng nhất là nghiệp báo. Nghiệp báo đă tạo rồi th́ người hiểu rơ, người có tu dưỡng phải biết tha thứ. Phàm những kẻ trong xă hội chẳng được người khác giúp đỡ là v́ không khiến cho người khác ưa thích. Do vậy, người thật sự nhân từ, trông thấy không đành ḷng, vẫn thương xót họ, giúp đỡ họ, chăm sóc họ, đó là đức hạnh. Người b́nh phàm chúng ta thường nói là tích đức rất trọng yếu,
phải biết học tập. Thiên sách ấy (Thái Thượng Lăo Quân Thuyết Bách Bệnh) có thể nói là bổ sung cho Cảm Ứng Thiên, khiến cho Cảm Ứng
Thiên càng viên măn, chúng ta tu học sẽ được lợi ích chân thật. Trong thiên văn tự ấy, đối
với câu “dục
trị chư bệnh, đương bị chủng
chủng chủng
dược” (muốn trị các bệnh, hăy nên chuẩn bị đầy đủ các món thuốc) [trong sách Hội Sớ đă được cụ Hoàng Niệm Tổ trích dẫn ở đây], chúng tôi đọc thiên văn chương này của Thái Thượng Lăo Quân bèn cảm xúc sâu đậm. Đối với những lời dạy của Lăo Quân, chúng ta có thể dùng bài văn ấy để phản tỉnh, chúng ta có bệnh hay không? Lại xem tới một trăm thứ bệnh do Ngài đă nói, chúng ta có hay không? Lại xem một trăm loại thuốc, chúng ta có những thuốc ấy hay không? Một trăm loại ấy đều giúp cho thân tâm chúng ta khỏe
mạnh, giúp chúng ta gia đ́nh hạnh phúc, công việc mỹ măn, lợi ích quá nhiều, hăy nên học tập! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới chỗ này.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
Phần 62 hết
[1] “Tám vạn bốn ngàn tế hạnh”
chỉ là cách nói tượng trưng nhằm tiêu biểu vô
lượng oai nghi, tế hạnh. Nếu hiểu theo Pháp
Tướng (như cách giải thích trong bộ Tam Tạng
Pháp Số) th́ đối với 250 giới của hàng tỳ-kheo,
mỗi giới đều bao gồm bốn oai nghi là
đi, đứng, nằm, ngồi nên 250x4=1.000. Phối
hợp một ngàn tế hạnh ấy với Tam Tụ
Tịnh Giới thành 1.000x3=3.000. Lại phối hợp ba ngàn
hạnh ấy với bảy điều giết, trộm,
dâm, dối, lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng
ngữ, ỷ ngữ thành 3.000x7=21.000, lại phối
hợp với tham, sân, si, đẳng phần thành
21.000x4=84.000 tế hạnh.
[2] Bí Tạng Kư là tác phẩm giảng
về giáo nghĩa Mật Giáo do sơ tổ Đông Mật
Nhật Bản là Hoằng Pháp Không Hải đại sư
biên soạn, ghi lại những lời dạy khẩu truyền
của tổ Huệ Quả thuộc Đông Mật Trung
Hoa giảng về các pháp tắc thực hiện nghi lễ
Mật Tông cũng như những giáo nghĩa bao hàm trong
ấy. Hiện thời, sách này có hai phiên bản, tức là Lược
Bổn một quyển và Quảng Bổn gồm hai
quyển.